Theo thông tin từ Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, bệnh nhân là ông N.T.L (46 tuổi), trong lúc đang làm việc, người đàn ông này đột ngột méo mặt, nói đớ và được chuyển đến bệnh viện cấp cứu. Ngay lập tức, quy trình cấp cứu đột quỵ được kích hoạt và can thiệp trong 20 phút. Nhờ vậy, bệnh nhân đã phục hồi và tiếp tục được theo dõi tại Đơn vị Đột quỵ nhằm phục hồi chức năng, phòng ngừa đột quỵ tái phát. Đến nay, người bệnh gần như quay trở lại cuộc sống bình thường.
Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Bá Thắng, Trưởng Đơn vị Đột quỵ, Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, cho biết huyết áp cao là yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn đến đột quỵ. Bệnh lý này làm tăng áp lực máu đến tim, thúc đẩy xơ vữa động mạch, tăng nguy cơ mắc các bệnh tim và mạch vành, đặc biệt là tình trạng tổn thương các động mạch xuyên nhỏ.
Thống kê cho thấy khoảng 77% trường hợp đột quỵ lần đầu có liên quan đến tình trạng tăng huyết áp. Nếu kiểm soát tốt huyết áp, nguy cơ đột quỵ có thể giảm 35-40%.
Ngoài ra, các bệnh về tim cũng là yếu tố nguy cơ dẫn đến đột quỵ như rung nhĩ, hẹp van tim, suy tim, van cơ học, nhồi máu cơ tim. Trong đó, rung nhĩ là bệnh lý tim mạch có nguy cơ gây đột quỵ cao nhất, chiếm khoảng 50%. Người bệnh đột quỵ do bệnh lý tim mạch có nguy cơ tái phát đột quỵ cao.
Người bệnh đái tháo đường cũng nằm trong nhóm đối tượng có nguy cơ đột quỵ tăng cao, gấp 2-6 lần so với bình thường. Tuy nhiên, đây là yếu tố có thể điều chỉnh được.
Theo bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Đức Thành, Trưởng khoa Phục hồi chức năng, Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, nguy cơ đột quỵ cũng có thể bắt nguồn từ lối sống sinh hoạt kém lành mạnh như hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, chế độ ăn uống nhiều đường, dầu mỡ, cay nóng hay thói quen ít vận động, tình trạng căng thẳng kéo dài.
“Đó cũng là lý do tại sao người bệnh đột quỵ ngày càng trẻ hóa”, bác sĩ Thành nhận định. Ông cũng cho biết việc phục hồi chức năng cho người bệnh cần được thực hiện sớm, đều đặn và kéo dài nhiều năm.
Các phương pháp bao gồm vật lý trị liệu, hoạt động trị liệu, ngôn ngữ trị liệu, sử dụng các dụng cụ trợ giúp và huấn luyện người bệnh tự chăm sóc bản thân. Việc phục hồi chức năng giúp người bệnh thích nghi với hoàn cảnh mới, dần quay trở lại với cuộc sống bình thường, phòng ngừa các biến chứng. Đồng thời, cần có vai trò của người thân trong việc hỗ trợ, đồng hành và động viên người bệnh.
6 tháng đầu sau cơn đột quỵ được đánh giá là “khoảng thời gian vàng” của quá trình phục hồi. Tùy thuộc vào những chuyển biến của người bệnh mà quá trình này có thể kéo dài trong vài tháng, vài năm, thậm chí là cả đời.