"Trong khi các nguồn năng lượng tái tạo vượt mức 480% thì các nguồn nhiệt điện chỉ đạt gần 60%", theo báo cáo của Chính phủ.
Chính phủ vừa gửi Quốc hội báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021. Trong đó, các vấn đề liên quan đến năng lượng tái tạo (NLTT) được đề cập chi tiết.
Điểm nhấn điện gió, mặt trời
Đề cập đến việc thực hiện Quy hoạch điện VII, báo cáo cho hay: Tổng công suất đặt nguồn điện năm 2019 là 56GW và tăng lên trên 69,3GW năm 2020 nhờ sự phát triển nhanh của các nhà máy điện mặt trời, bao gồm điện mặt trời áp mái, góp phần đưa tỷ lệ xây dựng nguồn điện đạt 132% so với tổng công suất đặt giai đoạn 2016-2020 của Quy hoạch điện VII điều chỉnh.
Tuy nhiên, cơ cấu xây dựng nguồn điện lại khác biệt. Trong khi các nguồn NLTT vượt mức 480% thì các nguồn nhiệt điện chỉ đạt gần 60%. Miền Bắc chậm tiến độ hơn 3GW nguồn nhiệt điện. Miền Nam chậm tiến độ hơn 3,6GW nguồn nhiệt điện nhưng lại vượt gần 14GW nguồn điện mặt trời.
Mặc dù tổng công suất đặt nguồn điện ở miền Nam vẫn đạt quy hoạch, nhưng nguồn điện mặt trời có lượng điện năng thấp hơn 1/3 so với nguồn nhiệt điện, lại là nguồn biến đổi và phụ thuộc nhiều vào thời tiết nên việc đảm bảo cấp điện vẫn còn nhiều khó khăn.
"Việc chậm tiến độ các nguồn nhiệt điện ở cả hai miền sẽ gây nguy cơ thiếu điện và khó khăn trong vận hành do thiếu công suất nguồn dự phòng, đặc biệt tại Bắc Bộ trong giai đoạn đến năm 2025", báo cáo lưu ý.
Sự phát triển nhanh của các nguồn NLTT trong thời gian đầu đã hỗ trợ bổ sung thêm nguồn cung cho hệ thống, góp phần giảm nguy cơ thiếu điện trong các năm 2018-2019, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Báo cáo điểm một vài con số về sự phát triển của các dự án NLTT, góp phần nâng cao tỷ lệ tiếp cận nguồn năng lượng sạch và điện năng của người dân khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, giảm lượng phát thải CO2 theo cam kết quốc tế tại COP26 của Chính phủ Việt Nam.
Cơ cấu nguồn đã có sự chuyển dịch đáng kể từ các nguồn năng lượng xám sang năng lượng sạch; tỷ lệ các nhà máy nhiệt điện than giảm dần từ 34% năm 2016 xuống còn khoảng 32,51% năm 2021, trong khi NLTT tăng dần từ mức không đáng kể (khoảng 0,3%) năm 2016 lên tới gần 27% vào năm 2021).
Trong các năm 2019, 2020 và 2021 sản lượng điện phát từ nguồn điện gió, mặt trời đạt tương ứng 5,242 tỷ kWh, 10,994 tỷ kWh và 29 tỷ kWh, góp phần giảm đáng kể điện chạy dầu giá cao (năm 2019 giảm khoảng 2,17 tỷ kWh năm 2019 và năm 2020 giảm 4,2 tỷ kWh, tiết kiệm khoảng 10.850-21.000 tỷ đồng cho việc sử dụng dầu để phát điện).
Thách thức của điện tái tạo
Tuy nhiên, Chính phủ đánh giá: Khi tỷ trọng các nguồn NLTT trong hệ thống ở mức cao và chưa có chính sách để phát triển đồng bộ các loại hình nguồn điện cung cấp dịch vụ phụ trợ, đã có một số ảnh hưởng nhất định đến công tác vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện quốc gia.
Việc chuyển hướng sang năng lượng sạch cũng gây ra nhiều thách thức cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trong chuyển dịch năng lượng. Đó là chi phí để thực hiện chuyển dịch năng lượng lớn, gây áp lực lên giá điện; hệ thống lưới điện của EVN chưa đáp ứng độ linh hoạt khi tích hợp các nguồn NLTT vào hệ thống; giá bán lẻ điện bình quân tại Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước trên thế giới, chưa có cơ chế linh hoạt về giá bán lẻ...
Chính phủ nhận định: Tỷ trọng NLTT biến thiên cao đã khiến vận hành hệ thống điện trở nên phức tạp hơn và mang lại một viễn cảnh tương lai với tỷ trọng NLTT cao hơn nữa tại Việt Nam. Việc tích hợp mức độ cao NLTT biến thiên không chỉ gây khó khăn trong quá trình vận hành mà còn là thách thức về quản lý.
Môi trường pháp lý về năng lượng của Việt Nam sẽ cần thay đổi nhanh chóng để đảm bảo các cơ cấu ưu đãi cũng như các quy định pháp lý tạo thuận lợi đủ sẵn sàng để phục vụ đấu thầu các dịch vụ cân bằng, cũng như các nguồn lực linh hoạt cần thiết của bên cung và bên cầu để tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch liên tục sang năng lượng sạch.
"Những biện pháp này cũng sẽ đòi hỏi phải được đặt vào quá trình cải cách thị trường tổng thể, phát triển thị trường điện cạnh tranh và kế hoạch đầu tư nâng cấp lưới điện", báo cáo của Chính phủ nêu.
Khó khăn cơ chế mua bán điện trực tiếp
Đối với trường hợp mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện và khách hàng sử dụng điện lớn thông qua đường dây kết nối riêng (không thông qua lưới điện quốc gia), báo cáo của Chính phủ cho biết điều này đã được quy định đầy đủ tại các văn bản quy phạm pháp luật để triển khai thực hiện và không có vướng mắc phát sinh.
Song, đối với trường hợp đơn vị phát điện và khách hàng sử dụng điện lớn mua bán điện trực tiếp thông qua lưới điện quốc gia thì còn nhiều vướng mắc.
Để triển khai cơ chế này đảm bảo tính khả thi, hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật thì cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định tại Luật Điện lực (như bổ sung quy định về “giá phân phối điện”, “hợp đồng kỳ hạn dạng chênh lệch trong thị trường điện”, quy định về “phí điều độ vận hành hệ thống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực”... ) và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan (Luật Giá, Luật Phí và lệ phí... ).
Bộ Công Thương đang hoàn thiện hồ sơ sửa đổi Luật Điện lực theo hướng sửa đổi, bổ sung các quy định cần thiết (về giá phân phối điện, hợp đồng kỳ hạn dạng chênh lệch,... ) để đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý để triển khai cơ chế mua bán điện trực tiếp trong trường hợp này.