Hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh được chép lại trong sử sách, năm 1912, khi đó Người mang tên Nguyễn Tất Thành đã quyết định đến nước Mỹ và lưu lại đây đến năm 1913, để tìm hiểu và học hỏi con đường giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Bởi, nhân dân Mỹ đã làm nên cuộc cách mạng vĩ đại lật đổ thực dân Anh, giành được độc lập năm 1776.
Trong thời gian ở Mỹ, Nguyễn Tất Thành sống ở TP. New York, sau đó đến TP. Boston để nghiên cứu lịch sử hình thành nước Mỹ. Đặc biệt, ở Boston, Người đã đến với bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ. Có thể nói đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với anh thanh niên Nguyễn Tất Thành.
Bản Tuyên ngôn đã truyền cảm hứng cho Người trên hành trình đi tìm đường cứu nước và sau này, Người trích nội dung tinh túy nhất, cốt lõi nhất trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ làm lời mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Năm 1941, sau khi trở về nước lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhận thức được vai trò và tầm ảnh hưởng của Mỹ, một siêu cường về kinh tế và quân sự, đối với chính trị thế giới và khu vực, đồng thời với việc xây dựng lực lượng cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm cách xây dựng mối quan hệ hữu hảo với lực lượng của Mỹ đồn trú ở Trung Quốc.
Hồ Chí Minh chủ động xây dựng quan hệ với tướng lĩnh và Cơ quan tình báo chiến lược OSS của Mỹ
Tháng 2/1945, sau khi lực lượng Việt Minh cứu được Trung úy phi công Mỹ là William Shaw (máy bay của viên phi công này bị quân đội Nhật bắn rơi ở Việt Bắc), Hồ Chí Minh đã trực tiếp đưa viên phi công sang trao trả cho Bộ Tư lệnh Không quân số 14 của Mỹ đang đồn trú ở Vân Nam. Người đã gặp, trao đổi với tướng Chenault, Tư lệnh không quân Mỹ ở Trung Quốc và thiết lập được mối quan hệ với Mỹ và các lực lượng Đồng minh giúp Việt Nam chống Nhật.
Thông qua các cuộc tiếp xúc của Người, Cơ quan tình báo chiến lược OSS của Mỹ (tiền thân của CIA) đã giúp đỡ Việt Minh điện đài, thuốc men và vũ khí nhẹ… Tuy đây chỉ là sự giúp đỡ mang tính tượng trưng, nhưng đã mở ra cơ hội để Việt Nam tranh thủ sự giúp đỡ của các nước đồng minh trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Ngày 29/8/1945, tại nhà số 48 phố Hàng Ngang, Archimedes L.A.Patti, Trưởng phòng Đông Dương của cơ quan tình báo chiến lược OSS ở Hoa Nam, là người nước ngoài duy nhất được Hồ Chí Minh mời nghe dự thảo bản Tuyên ngôn Độc Lập và trao đổi về một số chủ trương, kế hoạch tương lai của Việt Nam. Trong đó có việc tổ chức ngày Lễ tuyên bố Độc lập của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945.
Không những vậy, L.A.Patti là một trong số ít người nước ngoài được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời dự lễ công bố Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Trong buổi lễ trang trọng, thiêng liêng nhất của quốc gia, trên khán đài nổi bật khẩu hiệu "Hoan nghênh phái đoàn Mỹ".
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, để bảo vệ nền độc lập non trẻ, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã xác định: “Đối với Mỹ, việc ngoại giao mới có đôi phần kết quả, cần phải nhanh chóng tiến tới để Mỹ chính thức công nhận nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam và giao hòa với chúng ta”.
Xuất phát từ quan điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động liên hệ với một số nhân vật có tầm ảnh hưởng đối với Chính phủ Mỹ. Sau khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Người ưu tiên dành thời gian tiếp xúc, trao đổi với các sỹ quan Mỹ như thiếu tá Thomas, thiếu tá Archimedes L.A.Patti… để chuyển thành ý của Chính phủ Việt Nam mong muốn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Tổng thống Harry Truman và các quan chức ngoại giao Hoa Kỳ.
Những bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ
Để xây dựng mối quan hệ Việt - Mỹ lâu dài, ngày 1/11/1945, trong thư gửi Ngoại trưởng Mỹ James F. Byrnes, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn “gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hoá thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”. Qua đó cho thấy sự khéo léo và tầm nhìn của Người trong quan hệ với Mỹ.
Ngày 18/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Tổng thống Mỹ Harry Truman, cảnh báo về “những hệ lụy đối với an ninh thế giới từ sự xâm lược của Pháp vào Việt Nam”.
Bức thư cũng thể hiện sự đồng tình ủng hộ của Việt Nam với quan điểm Tổng thống Mỹ về nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc và nhân mạnh: “Việt Nam nồng nhiệt hoan nghênh bài phát biểu của Tổng thống Truman ngày 28/10/1945, trong đó nêu rõ các nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết được nêu ra trong các Hiến chương Đại Tây Dương và San Francisco”.
Cuối thư, Người bày tỏ hy vọng “Hoa Kỳ sẽ giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ độc lập và ủng hộ nhân dân Việt Nam trong quá trình tái thiết đất nước” và cam kết nếu nhận được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ đóng góp công sức vào việc xây dựng hòa bình và thịnh vượng trên thế giới.
Tiếp đó, trong thư gửi Tổng thống Harry Truman ngày 16/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cũng như Philippines, mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới”.
Chỉ sau hơn một năm đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “tám lần gửi thông điệp, thư, điện cho Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ, giới thiệu tình hình Đông Dương, đề nghị Hoa Kỳ công nhận nền độc lập của Việt Nam, góp phần ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp gây ra ở Đông Dương”. Cho thấy Người đã dốc tâm tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ đối với nền độc lập non trẻ của Việt Nam, xây dựng quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia.
Nhưng có lẽ do cân nhắc giữa mối quan hệ với “đồng minh chiến lược” của Mỹ khi đó là Pháp với việc ủng hộ một Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập và đang phải đối mặt với “muôn vàn gian khó”, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nên Tổng thống Harry Truman đã chọn giải pháp im lặng trước tình cảm nhiệt thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đối với nước Mỹ.
Vì vậy mối quan hệ Việt - Mỹ đã rẽ sang một hướng khác đầy chông gai.
Điều tất yếu đã diễn ra
Trước xu thế hội nhập, vai trò vị trí của nước này ràng buộc đối với sự phát triển và thực hiện các mục tiêu chiến lược của nước kia; trước yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh, quốc phòng của mỗi nước, của khu vực và thế giới, cái gì đến rồi cũng phải đến.
Đêm 11/7/1995 (ngày 12/7/1995 giờ Việt Nam), Tổng thống William J. Clinton công bố “bình thường hóa quan hệ” với Việt Nam. Sáng 12/7/1995, tại Hà Nội (11/7 theo giờ Mỹ), Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Tháng 11/2000, Tổng thống Mỹ William J. Clinton thăm Việt Nam và trở thành Tổng thống Mỹ đầu tiên thăm chính thức Việt Nam.
Từ đây, lãnh đạo hai quốc gia và lãnh đạo các bộ ngành của hai nước đã thường xuyên viếng thăm lẫn nhau để làm cho quan hệ Việt - Mỹ càng ngày càng thực chất, hiệu quả.
Đặc biệt, tháng 7/2013, trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang theo lời mời của Tổng thống Barack Obama, hai bên đã xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt - Mỹ. Và tháng 7/2015, chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng theo lời mời của Tổng thống Barack Obama, hai bên đã thông qua Tuyên bố về Tầm nhìn chung quan hệ Việt - Mỹ.
Và chưa có tiền lệ, khi ngày 10 và 11/9/2023 tới đây, lần đầu tiên theo lời mời của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ thăm chính thức Việt Nam. Theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng, “chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden nhằm làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt - Mỹ, đưa quan hệ hai nước phát triển ổn định, thực chất và lâu dài trên tất cả các lĩnh vực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển tại khu vực cũng như trên thế giới.”
Theo thông báo ngày 28/8/2023 của Nhà Trắng, chuyến thăm của Tổng thống Biden sẽ "khám phá các cơ hội để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, tập trung vào công nghệ và đổi mới, mở rộng quan hệ nhân dân thông qua trao đổi giáo dục và các chương trình phát triển lực lượng lao động, chống biến đổi khí hậu cũng như tăng cường hòa bình, thịnh vượng và ổn định ở các nước khu vực".
Rất thú vị năm 1913, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) rời nước Mỹ, mang theo cảm hứng và ký ức về nội dung tinh túy trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, để về sau làm lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam. Rồi 110 năm sau, Tổng thống Mỹ đến Việt Nam để tiếp tục làm sâu sắc hơn quan hệ hai nước Việt - Mỹ.
Nguyễn Huy Viện