TS Ngô Xuân Quý, Trưởng khoa Ngoại đầu cổ, Bệnh viện K cho biết, ung thư tuyến giáp là bệnh ác tính phổ biến nhất chiếm hơn 90% trong tổng số bệnh nhân mắc các bệnh ung thư về tuyến nội tiết.
Thời gian gần đây, số lượng bệnh nhân mắc ung thư tuyến giáp có xu hướng tăng nhanh, xếp thứ 9 trong số các ung thư phổ biến nhất Việt Nam với hơn 5.400 ca mắc.
Chỉ tính riêng tại Bệnh viện K, trong năm 2019 phẫu thuật cho hơn 3.000 ca mắc các bệnh tuyến giáp, trong đó chủ yếu là ung thư tuyến giáp và năm sau đều nhiều hơn năm trước.
TS Quý cùng ekip phẫu thuật bóc u cho bệnh nhân ung thư tuyến giáp
Giải thích nguyên nhân khiến ung thư tuyến giáp ngày càng tăng, TS Quý cho biết có 2 nguyên nhân chính: Thứ nhất, các loại ung thư đều có xu hướng hướng tăng; thứ hai, chủ yếu liên quan tới môi trường, thuốc lá, ăn uống, nhiễm vi khuẩn, virus…
Ngoài ra, những năm gần đây, trình độ nhận thức của người dân ngày càng tăng cao, nhiều trường hợp có triệu chứng bất thường đã chủ động đi khám để được tư vấn, điều trị kịp thời.
Một số khác bắt đầu có thói quen khám sức khoẻ định kỳ đều đặn, để tầm soát, phát hiện sớm ung thư nói chung và ung thư tuyến giáp nói riêng, qua đó tỉ lệ phát hiện bệnh tăng lên.
Hiện tại, các cơ sở y tế cũng trang bị, ứng dụng nhiều phương tiện chẩn đoán u tuyến giáp, giúp ngày càng có thêm nhiều bệnh nhân phát hiện ra bệnh.
May mắn, so với nhiều ung thư khác, tiên lượng điều trị ung thư tuyến giáp rất tốt, nếu phát hiện ở giai đoạn sớm có thể chữa khỏi hoàn toàn, tính chung tỉ lệ bệnh nhân sống qua 5 năm kể từ khi chẩn đoán là trên 90%.
Tại nước ta, hầu hết bệnh nhân ung thư tuyến giáp đến khám và điều trị do tình cờ phát hiện hoặc khám sức khoẻ định kỳ vì ở giai đoạn đầu, bệnh không có triệu chứng đặc hiệu.
Một số ít trường hợp đến viện khi khối u, hạch vùng cổ đã lớn, chèn ép các cơ quan xung quanh như khí quản, thực quản, dây thần kinh thanh quản quặt ngược gây ra các triệu chứng tương ứng như khó thở, nuốt vướng, khàn tiếng… Chủ yếu gặp ở các bệnh nhân có trình độ dân trí chưa cao.
Ung thư tuyến giáp gồm 4 thể, trong đó thể nhú phổ biến nhất, chiếm 70-80%. Đây là thể tiến triển chậm, hay di căn hạch, cổ; ung thư tuyến giáp thể nang chiếm 10-15%, tiến triển nhanh hơn, có thể di căn xa vào phổi, xương; ung thư tuyến giáp thể tuỷ, chiếm 5-10%, liên quan đến di truyền và nội tiết và ung thư tuyến giáp thể nang, chiếm khoảng 2%, là thể ác tính nhất.
Theo TS Quý, để điều trị ung thư tuyến giáp, hiện nay các bác sĩ áp dụng 3 phương pháp chính là phẫu thuật, xạ trị và điều trị nội khoa.
Trong điều trị ung thư tuyến giáp, phẫu thuật đóng vai trò quan trọng nhất có tính chất quyết định đến kết quả điều trị. Nếu phẫu thuật ở giai đoạn muộn khi khối u lớn, di căn hạch nhiều, bệnh nhân có thể gặp biến chứng sau phẫu thuật như khàn tiếng, hạ canxi, nuốt sặc, rò bạch huyết…
Trong trường hợp phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp, bệnh nhân có thể được điều trị Iod 131 và bổ sung hormon tuyến giáp thay thế giúp duy trì bệnh ổn định lâu dài.
Bệnh nhân ung thư tuyến giáp thường ít điều trị hoá chất vì ít đáp ứng.
Giống như nhiều loại ung thư khác, các dấu hiệu sớm của ung thư tuyến giáp rất mơ hồ, do đó người dân cần đi kiểm tra sức khoẻ định kỳ, cách đơn giản để phát hiện là siêu âm tuyến giáp.
Nếu muộn hơn, bệnh nhân có thể có biểu hiện khàn tiếng, nuốt vướng khi u chèn vào thực quản, khó thở khi u chèn khí quản; thứ tư, xuất hiện hạch ở cổ, di động theo nhịp nuốt.
Thúy Hạnh
Bé 3 tuổi nhỏ nhất Việt Nam mắc ung thư tuyến giáp di căn
- Thấy con thở khò khè, khi đi khám, cha mẹ được bác sĩ thông báo bé đã mắc ung thư tuyến giáp di căn, trên cổ chi chít hạch.