Cho đến ngày nay, ngành điện vẫn còn vang vọng câu khẩu hiệu “Tổ quốc cần điện như cơ thể cần máu”.
Những bước chân thần tốc
Sau ngày thống nhất đất nước tháng 4/1975, tổng công suất điện cả nước chỉ đạt dưới 3.000 MW, thiếu điện triền miên, ngày bật, ngày tắt, không đủ điện cho sản xuất, sinh hoạt của nhân dân.
Hồi đó có nhiều qui định về đầu tư rườm rà. Một dự án phải trình duyệt qua nhiều cơ quan, mất 1-3 năm chưa xong bước phê duyệt thiết kế kỹ thuật, mà sau đó còn có các khâu phê duyệt tổng dự toán, rồi đấu thầu, phê duyệt kết quả trúng thầu,… mỗi bước mất ít nhất 5-7 tháng.
Trước tình hình đó, những người làm điện đã mạnh dạn đề xuất một số cơ chế đặc biệt, gọi tắt là các cơ chế 797, 400 và 1195, được Thường trực Chính Phủ chấp thuận.
Các cơ chế này giống như cuộc cách mạng về quản lý đầu tư. Những người làm điện căn cứ vào các Tổng sơ đồ điện 5, 6 và 7, được quyền tự quyết định đầu tư các dự án từ khâu thiết kế, duyệt dự toán, đấu thầu, xây dựng và đưa vào vận hành.
Các cơ chế đột phá đó làm thay đổi ngành điện một cách mạnh mẽ. Chỉ trong 12 năm từ 2003-2015 riêng EVN đã xây dựng 28 nhà máy thủy điện, hơn 10 nhà máy nhiệt điện tại các trung tâm điện lực qui mô lớn tại Vĩnh Tân, Phú Mỹ, Trà Vinh, Quảng Ninh, Hải Phòng, trong đó có nhà máy thủy điện Sơn La vượt trước tiến độ 2 năm, làm lợi hơn 1 tỷ USD.
Cũng cơ chế đó đã giúp xây dựng đường dây 500 kv mạch 2 ngay khi khởi công xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La, mà tiến độ thi công thần tốc của nó làm nhiều người ngỡ ngàng. Với tốc độ đầu tư khẩn trương, công trường điện mở ra khắp cả nước, những người làm điện vất vả nơi công trường, không lễ, không Tết, không phép, cho đến khi công trình hòa điện lên lưới.
Chỉ trong hơn một chục năm, công suất của ngành điện đã vượt trên 40.000MW, chấm dứt tình trạng thiếu điện. Điện được cấp đủ cho mọi cơ sơ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, ngoài ra còn có dự phòng.
Các cơ quan cấp trên vào kiểm tra, thanh tra quá trình xây dựng đã phát hiện một số thiếu sót. Tuy nhiên, cái được lớn hơn nhiều; các công trình vào đúng tiến độ, chất lượng xây dựng được kiểm định và thử thách; qua mười mấy năm vận hành các công trình đều an toàn và phát huy năng lực rất tốt.
Từ một đất nước thiếu điện trầm trọng, đến nay Việt Nam đã xếp trong số 29 nước hàng đầu trên tổng số 200 quốc gia trên thế giới và đứng đầu trong 10 nước ASEAN về phát triển điện lực.
Sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo cao cấp
Thành quả đó là nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân cả nước, đặc biệt sự nỗ lực hết mình của những người làm điện Việt Nam.
Trong chuyến thăm và làm việc tại EVN cách đây một thời gian, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá về ngành điện Việt Nam: “Hôm nay tôi rất vui mừng và vinh dự chúc tết anh chị em ở Tập đoàn Điện lực Việt Nam - ngành công nghiệp mũi nhọn cực kỳ quan trọng đối với đất nước ta. Ngành điện vừa qua đã có bước phát triển hết sức nhanh chóng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực”.
Bây giờ, đất nước có gần 100 triệu dân, đang công nghiệp hoá, đô thị hoá rất nhanh nhưng tình trạng mất điện bây giờ rất là hiếm hoi nếu không nói là hầu như không có. Chỉ riêng cái đó thôi là nói lên tất cả.
Không chỉ ở thủ đô Hà Nội, ở TP Hồ Chí Minh, hay Đà Nẵng, Huế, các trung tâm thành phố lớn, từ vùng sâu, vùng xa trên miền núi, biên giới, hải đảo, khắp các nơi đều được sử dụng điện của chúng ta tự sản xuất.
Những nhà máy thuỷ điện lớn gần đây đã được xây dựng như Sơn La, Lai Châu vận hành rất an toàn, vừa tham gia cung cấp điện, vừa trị thuỷ sông Hồng, sông Đà hiệu quả.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, điện khí hoá toàn quốc, ngành điện đã đóng góp vai trò hết sức quan trọng và nhân dân được hưởng thành quả này. Nhân dân rất cám ơn ngành điện.
Tổng Bí thư nói: “Tôi xin thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước nhiệt liệt hoan nghênh, chúc mừng và cảm ơn các đồng chí và mong rằng sắp tới các đồng chí sẽ tiếp tục phát huy truyền thống này, những thành quả này để đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Nguồn EVN).
Đến nay, không hiểu vì sao vẫn những người làm điện đấy, vẫn bộ máy đấy, đã từng nếm mùi cay đắng, tủi hờn của những năm thiếu điện trước đây, họ rất coi trọng những thành quả, họ dạn dày hơn, kinh nghiệm quản lý nhiều hơn, ý chí vươn lên vẫn mạnh mẽ hơn lại để thiếu điện?!
Có nhiều khía cạnh phải xem xét, nhưng có một điều dứt khoát phải nhấn mạnh: các cơ chế đột phá nói trên không nên bỏ hoàn toàn! Các cơ chế đó được đúc kết từ thực tiễn, được cuộc sống chấp nhận; các cơ chế đó đã giúp xây dựng nguồn điện và lưới điện rất nhanh, cứu được thiếu điện. Vậy mà lại bỏ cơ chế đó đi. Thật đáng tiếc!
Với những người làm điện, các cơ chế đặc biệt nêu trên là sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước dành cho lĩnh vực đầu tư trong ngành điện. Nó là những trang vàng, tài liệu quí về giải phóng thủ tục đầu tư, giải phóng nguồn lực cho phát triển.
Còn bây giờ, các bước trình duyệt dự án đầu tư làm lại gần giống như trước đây. Việc đầu tư các dự án rất chậm, có dự án trình duyệt 1-3 năm chưa duyệt xong.
Thời gian qua, dự án điện được khởi công xây dựng rất ít, có khi 2-3 năm chưa khởi công xây dựng được nhà máy nào lớn, trừ những nhà máy điện mặt trời và điện gió qui mô nhỏ, trong khi nhu cầu điện tăng tự nhiên 5-10% mỗi năm (tức là mỗi năm phải đưa vào một công suất lớn hơn nhà máy thủy điện Sơn La) nên việc thiếu điện là khó tránh khỏi .
Những nỗi niềm day dứt
Một vấn đề nghiêm trọng nữa của doanh nghiệp là lỗ lớn quá. Tại sao ngành điện liên tục có lãi từ 2010 đến 2021, dù lãi còn ở mức khiêm tốn (chỉ lãi vài ba nghìn tỷ mỗi năm, so với 700 nghìn tỷ đồng tài sản, thì tỷ suất lợi nhuận còn thấp <1%). Năm 2021 ngành điện có lãi mấy nghìn tỷ đồng mà năm 2022 lại lỗ trên 26.000 tỷ đồng. Tại sao lỗ lớn như vậy khi vẫn là những con người đấy, vẫn thiết bị đấy, vẫn công tơ đo đếm đấy?
Điều này ai cũng hiểu là do xung đột trên thế giới, giá nhiên liệu và nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao. Thực tế này ai cũng biết!
Trong bối cảnh đó, nhiều nước tăng giá điện và khí đốt lên 5-7 lần. Ngành điện của Pháp phát triển vào hàng đầu thế giới về công nghệ và trình độ quản lý thế mà Nhà nước còn phải bù lỗ 49 tỷ USD (tương đương 1.225.000 tỷ đồng, một con số khổng lồ).
Những năm trước đây, khi các cơ quan quản lý tính toán thấy lỗ nên cho tăng giá điện để bù lỗ, có năm (2012) tăng tới 17%. Dân có kêu nhưng mỗi hộ dùng điện gánh vác một ít , cùng chia sẻ và rồi khó khăn cũng qua đi và tiếp tục phát triển.
Đến giai đoạn này thì hoàn cảnh trở nên quá khó đối với Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước chưa bao giờ bù lỗ lớn như vậy cho doanh nghiệp, còn doanh nghiệp cũng chưa bao giờ lỗ lớn đến thế.
Nếu lỗ tới gần cả trăm nghìn tỷ đồng thì lấy đâu ra tiền để trả cho các công ty phát điện? Các công ty phát điện không thể phát điện vì không có tiền mua nhiên liệu, vật liệu, phụ tùng,... để phát điện. Ngân hàng nào dám cho họ vay vốn để đầu tư, sản xuất?
Giải pháp trước mắt chỉ có tăng hoặc giảm giá điện theo đầu vào (tất cả những thứ đầu vào đều theo thị trường, trừ tiền lương chiếm khoảng 5-7% giá thành), đủ bù đắp chi phí, không lỗ, để có điện dùng như cách một nhà kinh tế từng nói “Không đủ điện mới chết chứ tăng giá điện chưa chết”.
Có những quốc gia trong khu vực từng cắt điện la liệt, mỗi đợt cắt là mấy nghìn nhà máy phải đóng cửa 2-3 tháng. Nam Phi, nước có quá trình phát triển điện gần giống như Việt Nam, đang bị cắt điện mỗi ngày 5-6 giờ. Họ không thể khắc phục ngay được tình trạng này và phải mất ít nhất 3-5 năm sau mới xây dựng xong nhà máy điện, với điều kiện có vốn sẵn và quyết định nhanh.
Việc tăng giá điện để phù hợp với giá thị trường đầu vào là cần thiết để có điện, nên cần một cơ quan quản lý cấp trên đứng ra giải thích cho người dân dùng điện hiểu rõ. Thấu hiểu tình thế khó khăn hiện tại, về việc phải tăng giá điện, người dân chắc chắn sẽ tin tưởng và chia sẻ.
Cần tinh thần thép trở lại
Với tình hình phê duyệt đầu tư chậm và kinh doanh thua lỗ hiện nay, các nhà đầu tư vào ngành điện sẽ chùng xuống. Xin nhắc lại là trong 5 năm trở lại đây không có nhà máy điện lớn nào được khởi công, trừ điện mặt trời và điện gió qui mô nhỏ. Vấn đề là các dự án này phụ thuộc nắng và gió; điện mặt trời chỉ phát được ban ngày, ảnh hưởng đến hệ thống điện. Những yếu tố đó và nhất là tác động nặng nề của Elnino làm các hồ chứa cạn trơ đáy, việc thiếu điện sẽ còn kéo dài.
Lường trước tình thế như hiện nay, trước đây Chính phủ đã ra Quyết định 63/2013/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ qui định về lộ trình, các điều kiện và cơ cấu ngành điện để hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam: từ năm 2015 đến 2016 thực hiện thị trường bán buôn cạnh tranh thí điểm; từ 2017 đến năm 2021 thực hiện thị trường bán buôn điện cạnh tranh hoàn chỉnh; từ năm 2021 đến 2023 thực hiện thị trường bán lẻ điện cạnh tranh thí điểm; và từ sau 2023 thực hiện thị trường bán lẻ cạnh tranh hoàn chỉnh. Luật Điện lực ban hành năm 2004 cũng đã qui định rõ về thị trường điện bán lẻ cạnh tranh.
Đây chính là "bảo bối" xử lý những bế tắc về thiếu điện và lỗ lớn.
Tất cả các loại hàng hóa đều theo thị trường, nhưng riêng giá điện không theo thị trường. Đầu vào liên tục tăng giá còn đầu ra thỉnh thoảng tăng chút ít là trái với qui luật thị trường. Cả hai bên mua bán điện đều luôn gặp trục trặc, khó khăn mà không đảm bảo được cung điện.
Từ khi có Luật Điện lực cách đây 20 năm và Quyết định 63/2013/QĐ-TTg cách đây 10 năm, cơ quan tham mưu chưa soạn thảo xong qui định, hướng dẫn thực hiện.
Trong khi đó, trên thế giới hơn 70 quốc gia có thị trường điện, có nước hình thành thị trường điện gần 100 năm rồi.
Ngay cả Philippines có chỉ số điện lực thấp hơn Việt Nam mà cũng đã thị trường điện từ lâu.
Thử xem các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như gạo, thịt, xăng dầu đã tuân theo các quy luật của thị trường, thì các mặt hàng đó được cung ứng đầy đủ và tốt như thế nào!
Khi có thị trường điện thì thuận mua vừa bán, cạnh tranh quyết liệt sẽ không có ai kêu ca, phàn nàn; sẽ không có doanh nghiệp nào đứng trên thị trường; công ty nào bán đắt thì hôm đó sẽ phải đóng cửa, giá điện sẽ dao động và dần về giá hợp lý, thuận mua vừa bán, lợi ích hài hòa. Nhà đầu tư có lợi nhuận sẽ thu hút đầu tư mạnh mẽ hơn, không lo thiếu điện.
Vấn đề cực kỳ quan trọng là cơ quan tham mưu nên nghiên cứu và áp dụng lại những cơ chế đặc biệt của Thường trực Chính Phủ đã ban hành trước đây để tạo động lực thu hút, thúc đẩy đầu tư mới vào ngành điện.
Người làm điện đang bị những khó khó khăn quá lớn. Elnino làm nhiều hồ thủy điện chứa 5-10 tỷ m3 nước giờ chỉ còn dưới mức nước chết, sức người làm sao chống nổi thiên nhiên. Hơn nữa, chiến tranh tại châu Âu, giá cả tăng vọt và khan hiếm hàng hóa trên toàn thế giới đâu có dễ kết thúc ngày một, ngày hai.
Chúng ta cần một tinh thần cầu thị, quyết liệt; một cơ chế thông thoáng đã từng có; một thái độ tôn trọng thị trường để giải bài toán khó khăn này.
Là người dùng điện, xin chia sẻ khó khăn với những người làm điện, những người mang trang phục màu cam, đang ngày đêm gồng mình chống lại thiên tai, địch họa, để thắp sáng niềm tin trong lòng nhân dân.
Đào Văn Hưng