ngai10.jpeg
Hoàng đế Duy Tân là vị vua thứ 11 của triều Nguyễn, lên ngôi năm 1907, khi tròn 7 tuổi. Ngai vàng ông sử dụng thời điểm đó được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia hồi tháng 12/2024. Ảnh: P. Dieulefils
z6357378906310_7a62aadff4f2b656b898a54495ce56bb.jpg
Ngai biểu trưng đầy đủ tính vương quyền của chế độ quân chủ, đồng thời là tác phẩm nghệ thuật tạo hình, điêu khắc, có giá trị lịch sử, văn hóa và mỹ thuật đặc sắc. Hiện vật đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, một số chi tiết có dấu hiệu hư hỏng do đặc điểm của gỗ và chịu sự tác động bởi môi trường. 
z6357362932079_83581c922a0748e32b8d4c24ec71a0a2.jpg
Dưới thời Hoàng đế Duy Tân (1907-1916), chiếc ngai được chế tác dựa trên những nguyên tắc cơ bản của điển chế triều đình về chế tạo đồ. Ngai của Hoàng đế Duy Tân được trang trí với đồ án chủ đạo là rồng 5 móng. Tạo hình rồng trên ngai được thể hiện ở nhiều vị trí với nhiều tư thế biểu đạt những trạng thái khác nhau. 
z6357362926235_7bceb37e83af34a9cead76a87d8f6c18.jpg
Ở điểm tỳ tay, đầu rồng ngẩng cao, nét điêu khắc đơn giản nhưng chắc khỏe. Rồng ở phần bệ ngai chạm nổi gồ ghề, mang vẻ uy nghi, kết hợp với hình tượng chim phụng thể hiện dáng điệu thăng hoa, viên mãn. Rồng được thể hiện ở nhiều dạng thức và góc độ khác nhau, độc lập hoặc kết hợp với các yếu tố như phượng hoàng, dơi, hoa lá, mây, viên ngọc... thể hiện ước vọng trường tồn, mang ý nghĩa cầu phúc, cầu thọ và những điều tốt đẹp. 
z6357378900562_91ce7991e18d4c54a60cb447d9d5f1a3.jpg
Tùy vị trí, hoa văn trên ngai áp dụng kỹ thuật sơn son thếp vàng, chạm nổi hay chạm lộng, thể hiện sự phong phú của nghệ thuật điêu khắc gỗ và tay nghề tinh xảo của nghệ nhân.
ngai1 105423 87122.jpg
Theo Cục Di sản văn hoá, ngai Hoàng đế Duy Tân là hiện vật quý giá, mang nhiều giá trị đặc sắc về nghệ thuật tạo hình, trang trí của mỹ thuật Nguyễn đầu thế kỷ XX, gắn liền với lịch sử triều Nguyễn và một phần cuộc đời của Hoàng đế Duy Tân - vị vua có nhiều nỗ lực khôi phục nền độc lập, tự chủ của quốc gia... 
z6357362939701_67f2d72065ea551b8b4d1ea7f6c3f895.jpg
Lên ngôi khi vừa tròn 7 tuổi, Hoàng đế Duy Tân sớm trưởng thành, chững chạc trong tính cách, mang khí phách của bậc đế vương. Vỏn vẹn 9 năm trên ngai vàng và 30 năm sống lưu vong nhưng mong ước giành độc lập cho quê hương vẫn luôn là kim chỉ nam trong suốt cuộc đời ông. 

Hoàng đế Duy Tân (tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh San), con thứ 5 của Hoàng đế Thành Thái. Trong sách Vua Duy Tân (1995), tác giả Hoàng Hiển viết những anh em của Vĩnh San bị loại với nhiều lý do, trong đó quan trọng nhất là "các trẻ thừa kế mang những tật xấu của bố (tức Vua Thành Thái), đều có bộ mặt khó coi, tay chân lỏng khỏng, vẻ mặt thâm hiểm". Âm mưu của Pháp là đưa một vị vua nhỏ tuổi, chưa biết gì về vận nước để dễ bề sai khiến về sau.

Tuy nhiên, Hoàng đế Duy Tân luôn nêu cao tinh thần dân tộc, tư tưởng chống quân xâm lược. Khi lên ngôi, dù được người Pháp tạo điều kiện để vui chơi, ông miệt mài học tập nhằm am hiểu nhiều lĩnh vực như tiếng Pháp, triết học, chính trị học, luật lệ, triều chính. Vua sử dụng thành thạo các nhạc cụ đàn nguyệt, đàn tranh, tiếp thu văn hóa, thành tựu của phương Tây.

Hoàng đế Duy Tân là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ, do chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân cầm đầu, năm 1916. Cuộc chiến thất bại do trước đó vài hôm, một người trong lực lượng nổi dậy làm lộ tin. Hoàng đế được xem trẻ người non dạ, bị nghĩa quân lôi kéo nên không kết án nhưng vẫn lưu đày sang đảo Réunion ở châu Phi sau nhiều lần không chịu thỏa hiệp trước quân Pháp.

Tại chốn lưu đày, dù trải qua những tháng ngày vất vả, ông tiếp tục học. Ở hải đảo, ông nghiên cứu về vô tuyến điện để chế tạo máy liên lạc với bên ngoài. Vua nhiều lần muốn tham gia quân đội Pháp nhưng đều bị từ chối vì được cho là khó mua chuộc, có mưu đồ rời khỏi đảo để tái lập ngôi báu.

Chiến tranh thế giới Thứ hai nổ ra, cựu hoàng gia nhập quân đội và được thăng cấp Thiếu tá vào năm 1945. Sau đó, tướng De Gaulle ủng hộ ông về Việt Nam tham gia chính sự. Trước khi trở lại quê hương, ông đáp máy bay từ Pháp về đảo Réunion để thăm các con nhưng không may gặp nạn, qua đời ngày 26/12/1945.

Ảnh: Cục Di sản văn hoá