Phần 1: Hoàng Thành Thăng Long trong tương quan với các kinh đô cổ

Được biết, Hội Sử học đã gửi kiến nghị đến các cơ quan lãnh đạo cấp cao nhất về vấn đề "khu di tích Hoàng Thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội" nhưng xin phép được hỏi giáo sư tại sao chúng ta không tiến hành các thủ tục đăng ký Di tích đặc biệt cấp quốc gia ngay khi có đánh giá sơ bộ về giá trị đặc biệt quý hiếm của Hoàng Thành?

- Chúng tôi đã nói rất nhiều lần, nhưng vẫn còn sự lấn cấn. Đánh giá về giá trị thì thống nhất tương đối sớm. Ở hội nghị khoa học toàn quốc (8/2004) với sự hiện diện của các nhà khoa học Bắc – Trung – Nam là đã thống nhất cao độ. Nhưng vẫn không tìm được sự đồng thuận trong việc tìm ra phương án bảo tồn, nên vấn đề cứ dai dẳng mãi.  

Hoangthanh1.jpg
Một góc trưng bày các hiện vật được khai quật từ Hoàng thành Thăng Long dưới tầng hầm nhà Quốc hội

Đến hội nghị tháng 2/2006 do Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì do yêu cầu của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, tôi đã đưa ra lời kêu gọi rằng những vấn đề khoa học thì ta cứ tiếp tục nghiên cứu, nhưng đã đến lúc các nhà quản lý – khoa học – văn hóa phải thể hiện trách nhiệm của mình, không thể cứ tranh luận mà để di tích phơi mưa phơi nắng như thế, dù sau này đã có mái che nhưng vẫn xuống cấp, các chuyên gia nước ngoài còn thấy xót. 

Không nên sa đà quá vào những vấn đề khoa học, ta còn đủ thời giờ để nghiên cứu, tranh luận thì luôn mở cửa, nhưng đã thống nhất giá trị tổng quan thì nên thống nhất kiến nghị bảo tồn để có thể bắt đầu thực hiện. Lúc đó vẫn có hai phương án, bên chúng tôi thì luôn khẳng định phải bảo tồn toàn bộ, giải pháp thì từng bước, chỗ bảo tồn chỗ lấp cát.  

Còn phương án kia thì vẫn muốn bảo tồn một phần, còn vẫn dành chỗ xây Nhà Quốc hội. Phải đến hội nghị tháng 2/2006 mới thống nhất cả giá trị lẫn việc sẽ bảo tồn toàn bộ, giải pháp từng bước, những chỗ chưa bảo tồn ngoài trời được thì lấp đất lại để thế hệ con cháu làm tiếp. Sau đó tháng 6/2006 có kết luận của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, từ đó mới bắt đầu tiến hành việc đăng ký Di sản văn hoá thế giới và nghiên cứu qui hoạch, giải pháp bảo tồn,  Hà Nội thành lập tổ chức chịu trách nhiệm quản lý và bảo tồn...  

Giáo sư có thể trình bày sơ đồ kiến trúc Cấm Thành theo sử liệu?  

- Kết quả nhiều năm nghiên cứu về cấu trúc thành Thăng Long kết hợp với 2 năm nghiên cứu khảo cổ vừa rồi đã hội đủ những căn cứ khoa học cho phép khẳng định khu di tích 18 Hoàng Diệu nằm trong Cấm Thành. Ngay từ khi mới phát lộ năm 2003, các nhà sử học, khảo cổ học đã xác định khu di tích nằm trong Hoàng Thành, nay tiến lên một bước xác định khu di tích nằm trong Cấm Thành tức trung tâm của Hoàng Thành. Chúng ta có một số vật chuẩn quan trọng để định vị Cấm Thành.  

Thứ nhất, trung tâm của Cấm Thành là Điện Kính Thiên thời Lê sơ, xưa là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý, thời Trần. Đó là cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nền điện Kính Thiên bây giờ còn đó với bậc thềm và lan can đá chạm rồng mang đặc trưng nghệ thuật trang trí thế kỷ XV. Kiến trúc này xây dựng trên núi Nùng tức Long Đỗ (Rốn Rồng) nơi tụ hội khí thiêng của non sông theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền. 

Thứ hai là Đoan Môn là cửa Nam của Cấm Thành. Tài liệu sử sách cho biết  vị trí của Đoan Môn cũng không thay đổi qua các triều đại. Vừa rồi khảo cổ đã đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn còn lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang. Dưới chân Đoan Môn đã phát hiện dấu tích kiến trúc của thời Lý, thời Trần. Đoan Môn phải hiểu là cửa Nam phía trong trong cùng của Cấm Thành, bởi theo Phan Huy Chú và Nguyễn Văn Siêu thì phía nam Cấm Thành có ba lần cửa, nhìn trên bản đồ Hồng Đức cũng thấy điều đó. Theo một số tài liệu đời Nguyễn thì Cột Cờ được xây dựng trên nền cửa Tam Môn là cửa Nam ngoài cùng của Cấm Thành. Như vậy là Kính Thiên – Đoan Môn – Cột Cờ/Tam Môn là trục trung tâm của Cấm Thành.  

Thứ ba là chùa Một Cột. Theo văn bia Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi, Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121 thời Lý thì chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột dựng ở phía tây Cấm Thành. Vậy tường thành phía tây của Cấm Thành không thể quá vị trí Chùa Một Cột. Theo bản đồ Hồng Đức và nhiều tài liệu địa lý học lịch sử, ở phía tây bắc của Cấm Thành có cửa Tây (Tây Môn) và phía ngoài có núi Khán Sơn và chùa Khán Sơn là nơi vua Lê Thánh Tông lên duyệt binh. Đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng lại thành Thăng Long, từ năm 1831 đổi tên là thành Hà Nội, thì Khán Sơn nằm bên trong, ở về phía tây bắc của thành Hà Nội, nghĩa là nằm ở khoảng cuối Hùng Vương gần Phan Đình Phùng, trước mặt Phủ Chủ tịch và Thủ tướng phủ hiện nay. Từ đó, tôi phỏng đoán tường thành phía tây Cấm Thành ở vào khoảng đường Độc Lập đến giữa Quảng trường Ba Đình.  

Vậy là ta đã xác định được vị trí trung tâm, trục trung tâm cùng giới hạn phía nam và phía tây của Cấm Thành. Theo bản đồ Hồng Đức, Cấm Thành có hình chữ nhật, nhưng Đông cung và Thái miếu ở phía đông - theo Nguyễn Văn Siêu - dù nằm trong tường thành bảo vệ nhưng không coi là trong Cấm Thành, và như thế Cấm Thành gần như hình vuông. Điều này cũng rất phù hợp với việc nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội  trên cơ sở mở rộng Cấm Thành, vì trong chỉ dụ của vua Gia Long có nói thành Thăng Long (Cấm Thành) chật hẹp, cho nên phải mở rộng thêm. Thành Hà Nội của nhà Nguyễn vì thế rộng hơn Cấm Thành, nhưng nhỏ hơn Hoàng Thành. 

Những dấu vết kiến trúc mới phát lộ tại khu di tích 18 Hoàng Diệu được giới khoa học trong và ngoài nước đánh giá là cực quý hiếm, xin giáo sư làm rõ tầm mức quan trọng bậc nhất của khu di tích này? 

- Theo kết quả xác định trên thì khu khai quật chắc chắn nằm trong Cấm Thành và chỉ cách điện Kính Thiên chưa đầy 100m, tức gần vùng trung tâm của Cấm Thành. Các kết quả khai quật khảo cổ thời gian qua càng khẳng định điều đó. Ở đây đã tìm thấy dấu vết của cung Trường Lạc, là cung của hoàng hậu vua Lê Thánh Tông và là Hoàng thái hậu của vua Lê Hiển Tông. Rồi còn có Hoàng Môn Thự thời Trần, gần đây lại có dấu tích của Kim Quang điện thời Lê Thánh Tông. Đây là những cung điện nằm trong phạm vi Cấm Thành. Khảo cổ học còn tìm thấy những "đồ ngự dụng" chỉ dành cho nhà vua như bát có hình rồng 5 móng. 

Trong các di tích đã phát lộ còn có giếng Đại La, nhưng trên đó lại có lớp gạch xây thêm thời Lý. Điều đó cho thấy khi vua Lý Thái Tổ dời đô về đây, đúng như nhà vua nói trong "Chiếu dời đô" là dời đô về "thành Đại La" của Cao Vương. Buổi đầu, nhà vua sử dụng thành Đại La cùng một số cung điện, kiến trúc có sẵn rồi cải tạo và mở mang thêm. Đồng thời, Lý Thái Tổ cho kiến thiết rất nhiều, ngay từ năm đầu tiên đã xây dựng thêm 8 điện 3 cung, xây một lớp thành bảo vệ bên ngoài.

Trong thời Lý, thành Thăng Long với cấu trúc ba lớp thành đã được kiến tạo. Từ đời Lý sang đời Trần, qua các biến cố cuối thời Lý, một số kiến trúc cung đình bị phá huỷ và nhà Trần lại tiếp tục công việc dinh tạo, mở mang và xây dựng thêm. Trong thời Trần, ba lần kháng chiến chống Mông-Nguyên, kinh thành lại bị tàn phá và sau đó lại xây dựng.

Còn từ thời Trần sang thời Lê, qua 20 năm Minh thuộc, kinh thành có nhiều thay đổi. Thời Lê Thánh Tông, Hoàng Thành được mở rộng về phía tây nam và Cấm Thành cũng có nhiều kiến trúc mới. Tại khu di tích Hoàng Thành phát lộ ở 18 Hoàng Diệu, dấu vết của các đời Lý – Trần – Lê Sơ rõ nét nhất và đó cũng là những thời kỳ hoàng kim nhất của Thăng Long, thời kỳ của kỷ nguyên Văn minh Đại Việt. 

Trong lịch sử thành Thăng Long, La thành (hay Đại La thành), Hoàng Thành trải qua khá nhiều thay đổi, nhưng trung tâm của Hoàng Thành, đặc biệt là vị trí, qui mô của Cấm Thành (còn gọi là Cung thành) thì gần như không thay đổi, chỉ có kiến trúc bên trong thì dĩ nhiên qua nhiều lần xây dựng, tu sửa. Chính đặc điểm này giải thích tại sao trên khu di tích 18 Hoàng Diệu, các lớp di tích kiến trúc và di vật chồng lên nhau qua các thời kỳ lịch sử.

Mời xem phần 3: GS. Phan Huy Lê: Vẫn còn giải pháp hay cho Cấm Thành  

Khánh Linh