Để đánh dấu thời gian trôi qua và hiểu được sự thay đổi trong suốt cả năm, nhiều nền văn hóa Đông Á cổ đại đã tạo ra lịch dựa trên Mặt trời và các chu kỳ của Mặt trăng. Lịch Ấn Độ giáo có 6 mùa, lịch Trung Quốc bao gồm 24 mùa và lịch Nhật Bản thậm chí còn được chia thành 72 mùa.
Lịch Nhật Bản có bốn mùa giống như chúng ta quen thuộc ở phương Tây. Tuy nhiên, mỗi mùa lại được chia thành sáu phần tạo ra 24 sekki, mỗi phần dài khoảng mười lăm ngày. Những khoảng thời gian này ban đầu bắt nguồn từ lịch âm truyền thống của Trung Quốc, một phương pháp tính thời gian trong đó một năm được chia theo các chu kỳ của mặt trăng cũng như quỹ đạo của trái đất quanh Mặt trời.
Mỗi sekki sau đó lại được chia thành ba 'ko' với tổng số 72 ko. Mỗi 'ko' kéo dài khoảng 5 ngày. Các mùa này phản ánh nhịp điệu tinh tế của hệ sinh thái Nhật Bản, mỗi mùa tương quan với một diễn biến thực tế trong thế giới tự nhiên tại thời điểm đó, chẳng hạn như măng mọc và lúa mì chín.
“Cứ sau vài ngày là lại đến một mùa mới, một cơ hội mới. Đủ nhỏ để mang theo nhẹ nhàng. Đủ lớn để quan tâm”, Quartz viết.
Mark Hovane giải thích lịch Nhật Bản một cách chi tiết:
Cốt lõi của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông là các điểm phân và điểm chí bắt đầu từ shunbun (xuân phân), geshi (hạ chí), shubun (thu phân) và toji (đông chí). Sự khởi đầu của mỗi mùa cũng được quan sát thấy trong risshun (đầu mùa xuân), rikka (đầu mùa hè), risshu (đầu mùa thu) và ritto (đầu mùa đông). Những điểm đánh dấu này chiếm 8 trong số 24 điểm theo mùa. 16 điểm còn lại chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết và các yếu tố nông nghiệp, chẳng hạn như mưa, tuyết và tiến trình của chu kỳ mùa vụ nông nghiệp và có các tên đặc trưng bao gồm usui (nước mưa), keichitsu (côn trùng thức dậy), shosho (nhiệt có thể kiểm soát được) hoặc hakuro (sương trắng).
Việc chia nhỏ các mùa của Nhật Bản ban đầu được du nhập vào Nhật Bản từ Hàn Quốc vào giữa thế kỷ thứ 6. Các tên được gán cho mỗi tiểu mùa ban đầu được bắt nguồn từ những thay đổi về khí hậu và tự nhiên ở miền Bắc Trung Quốc. Kết quả là, có những thay đổi nhỏ khi áp dụng vào bối cảnh Nhật Bản. Năm 1685, Shibukawa Shunkai, một nhà thiên văn học của triều đình, đã tự mình sửa lại các tên này, sắp xếp chúng chính xác hơn với khí hậu địa phương và bản chất của quê hương Nhật Bản. Lịch sửa đổi này vẫn được sử dụng cho đến năm 1873 khi chính phủ Minh Trị, trong quá trình theo đuổi hiện đại hóa, đã bãi bỏ hệ thống lịch truyền thống và áp dụng lịch Gregorian dựa trên Mặt trời của phương Tây. Tuy nhiên, nhiều người vẫn tiếp tục duy trì việc sử dụng lịch truyền thống bên cạnh lịch Gregorian bắt buộc.
Theo AP