Năm 2022, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã kiểm toán báo cáo tài chính, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước năm 2021 của Ngân hàng Nhà nước và 5 tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Tăng trưởng nóng ở nhiều lĩnh vực rủi ro
Theo đánh giá của KTNN, năm 2021, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện nhiều giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát ở mức 1,84%, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối. Các ngân hàng được kiểm toán đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động, kinh doanh có lãi, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3%.
Tuy nhiên KTNN lưu ý, với mức tăng tưởng tín dụng chung của nền kinh tế là 13,61%, tăng trưởng tín dụng đối với hầu hết các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro đều cao hơn mức tăng trưởng chung (lĩnh vực bất động sản 15,37%, lĩnh vực chứng khoán 23,85%, lĩnh vực trái phiếu doanh nghiệp 17,65%).
Tỷ lệ dư nợ tín dụng nền kinh tế so với GDP ở mức cao (năm 2020 là 114,3%; năm 2021 là 113,2%).
"Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ của Việt Nam thuộc nhóm cao nhất thế giới, tiềm ẩn nhiều rủi ro trong việc kiểm soát dòng tiền tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro", KTNN trích dẫn đánh giá của Ngân hàng Thế giới.
KTNN cũng chỉ ra việc chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể việc điều hành, kiểm soát chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng chung và chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng tổ chức tín dụng (TCTD).
Một số TCTD tăng trưởng tín dụng vượt mức tối đa cho phép của NHNN. Cụ thể, vượt mức tăng trưởng tín dụng tối đa được giao trong năm là Ngân hàng TMCP Bản Việt (được giao 13,48%, thực hiện 15,67%). Vượt mức tăng trưởng tín dụng tối đa tại các thời điểm trong năm là Ngân hàng TMCP Phương Đông (tại 31/7/2021, 31/8/2021, 30/9/2021, 31/10/2021).
Đầu tư tài chính chưa hiệu quả
Kiểm toán Nhà nước cũng chỉ ra một số đơn vị đầu tư tài chính không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp.
KTNN cũng thông tin về kết quả kiểm toán chuyên đề việc thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020.
Kết quả thực hiện Đề án đến hết năm 2020 cho thấy hoạt động của hệ thống ngân hàng cơ bản được kiểm soát an toàn; năng lực tài chính, quản trị điều hành của các TCTD được nâng cao, tiệm cận thông lệ quốc tế; từng bước xử lý và xóa bỏ tình trạng đầu tư, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các TCTD có liên quan; mô hình kinh doanh chuyển dịch dần từ lệ thuộc hoạt động tín dụng sang mô hình kinh doanh đa dịch vụ...
Song KTNN cho rằng còn một số tồn tại, khó khăn trong tổ chức thực hiện ảnh hưởng đến mục tiêu, kết quả Đề án: Việc phê duyệt, ban hành Đề án, phương án cơ cấu lại còn chậm. Một số TCTD chưa có giải pháp, lộ trình cụ thể để thực hiện một số mục tiêu đề ra tại phương án cơ cấu lại.
NHNN chưa thực hiện thanh tra chuyên đề việc thực hiện phương án cơ cấu lại đối với các TCTD; một số bộ, ngành chưa hoàn thành một số nhiệm vụ được giao tại Đề án.
Nhiều TCTD xác định tỷ lệ nợ xấu không đúng hướng dẫn của NHNN khi không tính toán đầy đủ các khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu (nợ cơ cấu, trái phiếu doanh nghiệp tiềm ẩn nợ xấu, các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái nhưng chưa thoái…).
Nếu tính toán, xác định lại, KTNN cho rằng một số TCTD không đạt được mục tiêu về kiểm soát tỷ lệ nợ xấu dưới 3%.