Đại sứ Marc Knapper cho biết, lần đầu tiên ông đến Việt Nam vào năm 2004, khi đó mối quan hệ song phương khá khiêm tốn.
“Đến nay, khi chuẩn bị kỷ niệm 10 năm ngày thiết lập quan hệ đối tác toàn diện (năm 2023), chúng ta đạt tổng kim ngạch thương mại hai chiều 113 tỷ USD, gấp gần hơn 200 lần so với 15 năm trước.
Chúng ta có rất nhiều lĩnh vực hợp tác cùng có lợi cho cả hai nước, không chỉ thương mại, đầu tư mà còn quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật, biến đổi khí hậu, năng lượng, giáo dục, y tế, văn hóa và giao lưu giữa người dân. Bất kỳ lĩnh vực nào các bạn nghĩ đến, cả Mỹ và Việt Nam đều đang hợp tác rất chặt chẽ”, Đại sứ cho biết.
Ông khẳng định, động lực đã tạo nên bước phát triển của mối quan hệ trong 10 năm qua cũng như các năm sắp tới, đó là cả hai nước đều nhận thức rằng, hợp tác sẽ có lợi cho người dân của cả hai quốc gia.
“Chính sách của Mỹ với Việt Nam rất rõ ràng. Chúng tôi ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập. Mối quan hệ song phương dựa trên sự tôn trọng thể chế chính trị của nhau, tôn trọng độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ. Các lợi ích và giá trị chung này đã tạo nên mối quan hệ mà hai nước có được ngày hôm nay và là nền tảng cho việc thúc đẩy mối quan hệ phát triển trong tương lai”, Đại sứ Knapper nói.
Nhất quán chính sách với Việt Nam
Trả lời câu hỏi của độc giả, Đại sứ cho biết, chính sách của Mỹ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương cũng như ở Việt Nam đã nhất quán qua nhiều chính quyền. Từ thời chính quyền của Tổng thống Obama đến thời Tổng thống Trump và Tổng thống Biden, đó là tương lai, sự thịnh vượng và an ninh của Mỹ kết nối chặt chẽ với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Trong chiến lược an ninh quốc gia vừa công bố, một trong những ưu tiên của Mỹ là muốn khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, tự do và rộng mở. Đây cũng là cách tiếp cận của Mỹ với Việt Nam và nhận được sự ủng hộ của lưỡng đảng Mỹ.
Không thể kể hết thành tựu
“Tôi phải nói rằng không thể kể hết các thành tựu trong mối quan hệ song phương một thập kỷ vừa qua”, ông Knapper cho biết.
Đại sứ Mỹ chia sẻ ví dụ về thành tựu trong phát triển quan hệ thương mại hai nước. Thương mại hai chiều hiện đạt 113 tỷ USD. “Chúng tôi hy vọng sẽ nhìn thấy quan hệ thương mại này phát triển hơn nữa. Chúng ta đang chứng kiến rất nhiều đầu tư của Mỹ vào Việt Nam và cũng bắt đầu có các dự án của Việt Nam vào Mỹ, tạo việc làm và các cơ hội rất tuyệt vời cho người dân Mỹ”, ông chia sẻ.
Trong hợp tác y tế, từ năm 2005, Mỹ có chương trình PEPFAR giúp đỡ những người nhiễm HIV. Mối quan hệ hai nước đã phát triển mạnh những năm qua, bao gồm việc hợp tác ứng phó với đại dịch Covid-19. “Việt Nam cung cấp cho Mỹ khẩu trang, các thiết bị bảo hộ cá nhân mà chúng tôi rất cần trong thời điểm đại dịch. Mỹ cũng hỗ trợ cho Việt Nam hơn 40 triệu liều vắc-xin. Đây là điều bạn bè làm để giúp đỡ lẫn nhau”, Đại sứ nhấn mạnh.
Một ví dụ khác là thành quả hợp tác song phương trong giải quyết các vấn đề còn tồn lại sau chiến tranh, bao gồm rà phá bom mìn chưa nổ còn sót lại, hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, tìm kiếm người bị mất tích cả của Mỹ và Việt Nam, giải quyết ô nhiễm dioxin tại những điểm nóng ở Việt Nam...
Tìm kiếm khả năng nâng cấp quan hệ
Bình luận về việc Mỹ và ASEAN đã nâng cấp quan hệ thành Đối tác chiến lược toàn diện, Đại sứ Knapper cho biết, điều này thể hiện sự hợp tác tuyệt vời giữa Mỹ với ASEAN. “Chúng tôi rất coi trọng vai trò trung tâm của ASEAN và cảm kích sự hỗ trợ của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Việc nâng cấp quan hệ này sẽ mở ra rất nhiều cánh cửa cho quan hệ của Mỹ và ASEAN, bao gồm hợp tác trong vấn đề Biển Đông hay là khu vực tiểu vùng sông Mekong hoặc các lĩnh vực như giáo dục, năng lượng và biến đổi khí hậu”, ông nói.
Trả lời độc giả về triển vọng nâng tầm quan hệ hai nước, Đại sứ Knapper khẳng định, quan hệ Việt - Mỹ đang đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, thịnh vượng không chỉ ở khu vực mà còn cả thế giới.
“Năm 2023, hai nước sẽ kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ đối tác toàn diện. Trong cả năm sau, chúng tôi sẽ tìm các phương thức để kỷ niệm dấu mốc quan trọng này cũng như tìm kiếm các khả năng để nâng cấp mối quan hệ.
Việc nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược thực sự thể hiện được bản chất của mối quan hệ hiện có của chúng ta, đó là quan hệ mang tầm chiến lược, dù là hợp tác trong vấn đề Biển Đông hay hợp tác ở tiểu vùng sông Mekong, năng lượng, biến đổi khí hậu, đối phó dịch bệnh, vì cả hai quốc gia cùng chung mục đích, chia sẻ các giá trị giống nhau.
Trên cơ sở những giá trị chung, lợi ích chung và lòng tin giữa hai nước, chúng tôi thực sự tin tưởng rằng việc nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược sẽ càng mở ra nhiều cánh cửa để hai nước hợp tác chặt chẽ hơn nữa”, ông nhấn mạnh.
Sân chơi công bằng trong thương mại Việt - Mỹ
Đề cập tới hợp tác thương mại song phương, Đại sứ Mỹ nói: “Chúng tôi luôn nỗ lực tìm cách thức để đảm bảo rằng thương mại giữa hai nước sẽ góp phần cho sự ổn định và thịnh vượng chung. Chúng tôi muốn đảm bảo rằng các nhà sản xuất và xuất khẩu Mỹ sẽ nhận được các cơ hội tiếp cận và chính sách giống như các cơ hội mà những nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam nhận được từ Mỹ.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thúc đẩy hơn nữa việc hợp tác với Việt Nam trong khu vực thông qua khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được công bố hồi tháng 5 năm nay. Việt Nam là một trong những thành viên đầu tiên tham gia vào khuôn khổ này và tham gia vào 4 trụ cột gồm thương mại tự do, khả năng chống chịu của chuỗi cung ứng, năng lượng sạch, thuế và chống tham nhũng”, Đại sứ Mỹ.
Tăng số lượng sinh viên Mỹ đến học ở Việt Nam
Trong buổi giao lưu trực tuyến với độc giả VietNamNet, ông Knapper nhấn mạnh đến sự tăng trưởng rất lớn trong hợp tác giáo dục.
"Chúng tôi rất tự hào vì mỗi năm có khoảng 30.000 sinh viên Việt Nam sang Mỹ du học và chúng tôi vừa nhận được tin rất vui khi Việt Nam đứng thứ 5 về số sinh viên nước ngoài tại Mỹ. Chúng tôi luôn cố gắng để khuyến khích sinh viên Việt Nam đến Mỹ du học, đồng thời hiện nay rất nỗ lực để tăng số lượng sinh viên và thanh niên Mỹ tới Việt Nam học tập”, ông cho biết.
Về phương diện quốc phòng - an ninh, Đại sứ Mỹ chia sẻ các phương diện hai bên tập trung hợp tác tới đây: rà phá bom mìn vì mục đích nhân đạo ở các tỉnh miền Trung Việt Nam và các nơi khác; gìn giữ hòa bình; hợp tác về vấn đề Biển Đông và an ninh hàng hải.
“Chúng tôi chia sẻ với Việt Nam quan ngại về các nỗ lực đơn phương thay đổi hiện trạng trong khu vực, chia sẻ với Việt Nam mong muốn duy trì luật pháp quốc tế, bảo đảm vùng biển tự do, rộng mở. Chúng tôi đang hợp tác với Việt Nam để nâng cao năng lực của lực lượng cảnh sát biển”, ông nói.