Quy định về chế độ sử dụng đất
Trao đổi với PV, bà Đoàn Thị Thanh Mỹ - Vụ trưởng Vụ Đất đai (Bộ TN&MT) cho biết, quy định về chế độ sử dụng đất dựa trên tiêu chí về phân loại đất hoặc khu vực có yêu cầu quản lý, sử dụng đặc thù.
Quá trình tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2013 cho thấy, thực tế đòi hỏi có cần có những quy định phù hợp đáp ứng với yêu cầu phát huy nguồn lực đất đai để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường trong tình hình mới.
“Luật Đất đai năm 2013 chưa cơ chế hữu hiệu nhằm tập trung, tích tụ đất nông nghiệp để thực hiện sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn; chỉnh trang, phát triển đô thị, nông thôn; sử dụng đất đa mục đích.
Quy định về sử dụng đất trong một số trường hợp chưa phù hợp với thực tế (đất khu công nghiệp, đất khu công nghệ cao, đất cảng hàng không, sân bay dân dụng, đất khu kinh tế…), còn có khâu trung gian trong quản lý, sử dụng đất gây khó khăn cho việc thực hiện quyền của người sử dụng đất”, bà Mỹ nhận định.
Theo bà Mỹ Luật Đất đai năm 2013 chưa có quy về đất khu nông nghiệp tập trung, đất chăn nuôi, đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế... Bên cạnh đó còn tồn tại sự không đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật đất đai và các pháp luật khác về một số nội dung liên quan đến chế độ sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp.
“Dự thảo Luật đã sửa đổi các nội dung liên quan đến chế độ sử dụng đất theo hướng mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển nhượng sử dụng đất nông nghiệp; sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ sử dụng đối với một số loại đất nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo điều kiện phát huy nguồn lực đất đai; bổ sung chế độ sử dụng đối với một số loại đất”, bà Mỹ thông tin.
Mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Bà Đoàn Thị Thanh Mỹ nhấn mạnh, dự thảo Luật đất đai sửa đổi đã rộng hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân lên không quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân.
Giao cho UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế của địa phương để quy định hạn mức này cho phù hợp với điều kiện về quỹ đất, tình hình kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Việc mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp đã được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm tạo điều kiện cho việc tích tụ đất đai với quy mô phù hợp để sản xuất nông nghiệp hàng hóa nhưng cũng thận trọng để bảo đảm cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp có đất sản xuất.
Đối với đất nông nghiệp
Về quyền của người sử dụng đất nông nghiệp, dự thảo bổ sung quy định:
Người sử dụng đất nông nghiệp được chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; được sử dụng một diện tích đất để xây dựng công trình phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Cho phép người sử dụng đất nông nghiệp được kết hợp với thương mại, dịch vụ, chăn nuôi, trồng cây dược liệu… nhưng không được làm thay đổi mục đích sử dụng đất chính.
Các công ty nông lâm nghiệp phải rà soát, lập phương án sử dụng đất của mình. Nhà nước thu hồi đối với diện tích sử dụng không đúng mục đích, không sử dụng; diện tích đất đang giao khoán, cho thuê, cho mượn, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư, bị lấn, bị chiếm và đang có tranh chấp để giao đất, cho thuê đất nhằm thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, cá nhân ở địa phương không có đất hoặc thiếu đất sản xuất.
Bổ sung quy định về tập trung, tích tụ đất nông nghiệp nhằm khuyến khích tập trung, tích tụ đất nông nghiệp, khắc phục tình trạng manh mún, tạo điều kiện thu hút đầu tư, ứng dụng cơ giới hoá và công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp.
Hoàn thiện chế độ sử dụng đất rừng sản xuất, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ để thống nhất với Luật Lâm nghiệp. Đồng thời, sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Lâm nghiệp trong dự thảo Luật để thống nhất về chuyển mục đích sử dụng đất với chuyển mục đích sử dụng rừng, cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển mục đích sử dụng đất, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư.
Đối với đất phi nông nghiệp
Về thời hạn sử dụng đất, dự thảo bổ sung quy định về:
Sử dụng ổn định lâu dài đối với đất ở không phân biệt đối với chủ thể sử dụng đất; thời hạn sử dụng đối với đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản trên cơ sở dự án đầu tư nhưng không quá 50 năm;
Quy định đối với các dự án thời hạn hoạt động trên 50 năm theo quy định của Luật Đầu tư thì thời hạn giao đất, cho thuê đất theo thời hạn của dự án nhưng không quá 70 năm; trừ trường hợp sử dụng đất ở trong dự án nhà ở thương mại.