Thời gian qua, nhiều hợp tác xã đã triển khai, thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất, kinh doanh, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao. Đồng thời thực hiện tốt việc liên doanh, liên kết, bảo đảm đầu ra ổn định cho nông sản.
Đặc biệt, các hợp tác xã giữ vai trò chủ đạo trong mối liên kết giữa hộ nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp, hình thành chuỗi sản xuất và tiêu thụ một số sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của tỉnh, góp phần quan trọng vào việc nâng cao giá trị sản xuất, tăng thu nhập bình quân đầu người. Đồng thời, tạo ra những thay đổi căn bản diện mạo ở khu vực nông thôn.
Để làm rõ hơn vấn đề này, báo VietNamNet tổ chức tọa đàm: “Phát huy vai trò của hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới thông minh", với 2 vị khách mời:
Bà Cao Xuân Thu Vân - Bí Thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
Bà Cao Thị Thuỷ – Giám đốc Hợp tác xã sản xuất, kinh doanh nông nghiệp Đoàn kết.
Mời quý vị xem video tại đây:
Vai trò quan trọng của hợp tác xã trong xây dựng NTM
Nhà báo Lê Thuý: Thưa hai vị khách mời, trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM), hình thức tổ chức sản xuất là một tiêu chí quan trọng. Muốn xây dựng NTM phải có hợp tác xã, hoặc tổ hợp tác hoạt động hiệu quả. Vậy, bà Vân đánh giá thế nào về vai trò của hợp tác xã trong xây dựng NTM, NTM nâng cao, kiểu mẫu, nhất là trong chương trình xây dựng NTM thông minh hiện nay?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Trong 19 tiêu chí xây dựng NTM thì có tiêu chí NTM đó phải có hợp tác xã. Đây là quy luật tự nhiên và cũng là chỉ tiêu chúng ta nỗ lực phấn đấu để xây dựng NTM đạt yêu cầu, mục đích cũng như tạo được công ăn việc làm, ổn định thu nhập cho người dân, người lao động và thành viên hợp tác xã.
Từ xác định tiêu chí NTM đó cho thấy, hợp tác xã có vai trò rất quan trọng trong xây dựng nông thôn. Đặc biệt là xây dựng NTM đạt một mức cao hơn, đó là NTM nâng cao, kiểu mẫu, góp phần tham gia vào sản xuất theo quy trình thông minh, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số.
Vai trò của hợp tác xã còn góp phần làm mới, làm thay đổi nhận thức tập quán cũ, lạc hậu. Đồng thời, phát huy được bản sắc văn hoá, hình thức, phương thức, cách thức sản xuất của bản địa. Nó không chỉ tạo ra một sản phẩm đơn thuần về kinh tế mà mang đậm giá trị văn hoá, làm hài hoà mối quan hệ kinh tế và xã hội.
Hợp tác xã cũng là nơi để tập hợp, có thể là một phương thức để tập trung ruộng đất, áp dụng đồng bộ tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất lao động; tham gia vào chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ đi theo.
Đồng thời, hợp tác xã cũng tạo được sự liên kết giữa nông dân, người sản xuất, hợp tác xã; giữa hợp tác xã với doanh nghiệp khác; giữa hợp tác xã này với hợp tác xã khác, để nối dài chuỗi sản xuất, tiêu thụ.
Quay trở lại việc người tiêu dùng đòi hỏi gì với người sản xuất; người sản xuất nghe, hiểu được nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó phát triển nền sản xuất theo hướng kinh tế. Chúng ta không sản xuất theo đam mê mà sản xuất vì người dùng.
Hợp tác xã cũng góp phần phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, giữ gìn bản sắc văn hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, đóng góp vào quá trình hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Do vậy, xây dựng NTM không thể thiếu được hợp tác xã và vai trò của hợp tác xã. NTM có tiên tiến, kiểu mẫu, có kiểu gì đó thành NTM phát triển thì hợp tác xã phải là hợp tác xã phát triển.
Nhà báo Lê Thuý: Để góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2021-2025 đã đề ra mục tiêu có ít nhất 70% xã có các hợp tác xã, 70% cấp huyện có các mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực, và 50% các mô hình liên kết, gắn với vùng nguyên liệu có ứng dụng công nghệ số. Theo bà Vân thì mục tiêu này nói lên điều gì?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Mục tiêu đó quá rõ ràng, dễ hiểu, song khó nhất là tổ chức thực hiện.
Chính mục tiêu đó cho thấy vị trí, vai trò của hợp tác xã đối với kinh tế nông thôn, đối với xây dựng NTM của giai đoạn mới rất quan trọng. Để đạt được mục tiêu đó là sự chuyển đổi số trong xây dựng NTM nói chung và chuyển đổi số trong hợp tác xã là một trong những giải pháp rất quan trọng.
Vì hiện nay, Chính phủ đã thực hiện Chính phủ số, xã hội số, tiến tới kinh tế số. Trong 3 vấn đề quan trọng này thì trong tất cả các lĩnh vực đều phải có dấu ấn của hợp tác xã. Bởi vì hợp tác xã không chỉ đơn thuần mang lại giá trị kinh tế mà mang đến giá trị xã hội, cộng đồng, môi trường.
Do vậy, yêu cầu đặt ra với các chỉ tiêu trên đòi hỏi các mô hình phải có sự liên kết sản xuất. Từ liên kết sản xuất mới tính đến bài toán tiêu thụ sản phẩm để hạn chế dần đến giai đoạn nào đó sẽ kết thúc câu chuyện giải cứu hàng hoá cho người nông dân.
Phải tổ chức một phong trào tiêu thụ sản phẩm mà chính sự liên kết, ứng dụng số làm cho hợp tác xã sản xuất hàng hoá thật sự là giá trị hàng hoá, để cho người nông dân, xã viên, hay hợp tác xã có hoạt động liên kết sản xuất gắn tiêu thụ nông sản, nhất là chọn những nông sản chủ lực.
Tôi ví dụ về phát triển cây dược liệu. Đất nước ta phù hợp trên 5.000 cây dược liệu. Tuy nhiên, chúng ta chọn cây dược liệu nào mang dấu ấn Việt Nam và cây dược liệu đó phải trở thành hàng hóa chủ lực. Giống như Hàn Quốc người ta liên tưởng tới sâm, thì nói tới Việt Nam sẽ là mặt hàng nào.
Hiện nay, các hợp tác xã dược liệu họ đang nỗ lực cho ra chế biến sâu, hiện đang tìm mặt hàng chủ lực nhất để thực hiện và thực hiện chuỗi liên kết để áp dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, đưa lên toàn cầu để nhiều người biết đến Việt Nam có dược liệu đó, hợp tác xã tham gia vào đó là có mặt hàng nào.
Vậy yêu cầu đặt ra đối với các hợp tác xã trong xây dựng NTM, hướng tới NTM thông minh giai đoạn 2021-2025 thì không chỉ là thành lập và hoạt động mà còn phải là liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực, liên kết gắn với vùng nguyên liệu có ứng dụng công nghệ số để truy được nguồn gốc xuất xứ, nguồn gốc sản xuất ra sản phẩm đó để tạo cho người dùng niềm tin về sản phẩm đó.
Hiện nay, người ta mua sản phẩm không chỉ mua giá trị đơn thuần, mà người ta mua cả một niềm tin. Cho nên, giá trị sản phẩm được nâng cao, cao hơn giá trị thực ở chỗ có niềm tin là có nguồn gốc rõ ràng. Do vậy, việc chúng ta thực hiện ứng dụng số rất quan trọng. Cho nên chỉ tiêu này không đơn thuần là một chỉ tiêu phấn đấu cho xây dựng NTM mà cho chính bản thân hợp tác xã để phát triển lâu dài, bền vững.
Chuyển đổi số để xây dựng một cộng đồng nông dân thông minh
Nhà báo Lê Thuý: Một vấn đề nữa tôi xin tiếp tục được hỏi bà Vân. Đối với hợp tác xã nông nghiệp, khi thực hiện chuyển đổi số không chỉ tạo nên một cuộc cách mạng trong sản xuất, mà còn xây dựng một cộng đồng nông dân thông minh, kết nối và bền vững, góp phần đẩy mạnh sự phát triển toàn diện của nông thôn, xin bà có thể nói rõ hơn về vấn đề này?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Tôi nghĩ đây là một cơ hội rất quý giá cho những người tham gia sản xuất, nhất là nông dân, để họ có cơ hội và chính chúng ta cũng mang đến cơ hội cho người nông dân để họ tiếp cận, thích nghi với sự chuyển đổi số để họ không bị lạc hậu và bị bỏ lại phía sau.
Người nông dân muốn chuyển đổi số để thay đổi gì với cuộc đời họ thì tôi nghĩ với cách tiếp cận đó thì hợp tác xã gắn với lợi ích về mặt kinh tế xã hội, tiếp cận với xã viên và họ tự bàn bạc việc hợp tác xã phải tham gia vào xu hướng này.
Thực tế cho thấy, người dân mình cũng thích ứng nhanh, nhưng hiện nay mức độ ứng dụng vẫn còn thấp.
Hiện nay chúng tôi tìm hiểu qua các công cụ điều tra thấy rằng, mức độ của hợp tác xã sử dụng ứng dụng chuyển đổi số, nền tảng thông minh mới ở giai đoạn đầu của mức độ 1, nhưng chương trình yêu cầu phải nắm được ở mức độ 2, mức độ 3 vì thế mới đạt được điểm 2/5, chưa đạt được điểm trung bình. Đây là điều chúng ta rất cần lưu ý.
Sắp tới đây, để thích ứng được thật sự điều này thì phải tận dụng cơ hội cho cuộc cách mạng công nghệ đưa vào các hợp tác xã. Chủ trương thì đã có rồi, nhưng chúng ta cần có một kịch bản cụ thể đối với người nông dân và hợp tác xã. Hoặc cần quy hoạch khung kiến trúc, thế nào là hợp tác xã chuyển đổi số, chuyển đổi số cần đi bao nhiêu bước, kinh phí dành tối thiểu ra sao, nguồn lực ở đâu…?
Hiện nay, rất nhiều ngành, nhiều cấp, tổ chức quan tâm tới hợp tác xã nên thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn cho hợp tác xã để hiểu về chuyển đổi số. Tuy nhiên, góc độ tiếp cận mỗi nơi khác nhau, dẫn đến việc hợp tác xã tiếp nhận quá nhiều thông tin, tiếp cận quá nhiều kiến thức nên còn lúng túng. Nhưng bên cạnh đó, có nhiều hợp tác xã có người đứng đầu rất tâm huyết, biết tận dụng thời cơ, nắm bắt thời cơ tham gia chuyển đổi số, xây dựng hợp tác xã thông minh. Hợp tác xã nào tận dụng sớm nhất, nhanh nhất thì đạt hiệu quả cao nhất. Qua những buổi tuyên dương, tôn vinh hợp tác xã, người nông dân đều cho thấy ai thành công sớm nhất đều có dấu ấn của việc ứng dụng nền tảng thông minh và công nghệ số.
Nhà báo Lê Thuý: Vậy để tiến tới xây dựng NTM thông minh, hợp tác xã có vai trò quan trọng như thế nào để thúc đẩy chương trình xây dựng nông thôn mới thông minh, bền vững?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Như tôi nói ban đầu, vai trò của hợp tác xã rất quan trọng trong việc xây dựng NTM. Vấn đề ở đây là hợp tác xã giải quyết nội tại của mình bởi vì xã viên ai cũng mong muốn có được cuộc sống tốt hơn, cả về vật chất lẫn tinh thần. Điều quan trọng hiện nay là cách thức tổ chức, quản trị và cách thức để thay đổi tư duy, nhận thức của người nông dân.
Cuối cùng, ở bất kỳ tổ chức nào vai trò của người đứng đầu cũng rất quan trọng. Vì thế, Đảng và Nhà nước cũng như nhiều địa phương đã có nhiều chính sách bồi dưỡng, tìm nhân tố, tìm những người không làm chỉ vì lợi ích kinh tế mà những người này họ thích dấn thân, trải nghiệm, cống hiến cho xã hội. Nếu ở đâu gặp được, tìm ra được người đứng đầu hợp tác xã như vậy thì hợp tác xã đó sẽ phát triển. Và có rất nhiều tấm gương đã làm được điều đó.
Từ tầm quan trọng đó, các tổ chức khác như: Hội nông dân khi họ triển khai các chương trình, dự án, kể cả vay vốn, hỗ trợ vốn thì cũng sẽ tìm người nông dân tham gia vào tổ hợp tác, hợp tác xã để toàn xã hội đều quan tâm tới hợp tác xã thông qua những chương trình cụ thể của mình.
Tôi nghĩ toàn xã hội đang quan tâm, muốn cho hợp tác xã thích ứng với các nguồn lực. Tuy nhiên, quan trọng nhất hợp tác xã phải chuẩn bị một cơ thể đủ sức để tiếp nhận những dinh dưỡng đó, từ đó để sử dụng, thích ứng với những dinh dưỡng đó để lớn mạnh, phát triển.
Hiện nay, đi đâu tôi cũng thấy rất nhiều các cơ quan thông tấn, báo chí rất quan tâm tới hợp tác xã. Điều đó thấy vị trí, vai trò của hợp tác xã trong xây dựng NTM rất lớn, không chỉ làm ra sản phẩm OCOP, sản phẩm hữu cơ VietGAP, mà sản xuất theo chuỗi cung ứng, theo chuỗi giá trị, theo đặt hàng của các công ty.
Hiện nay, tôi cũng vừa trao đổi với nhiều công ty, tôi nghĩ hợp tác xã muốn phát triển thì phải gắn với doanh nghiệp. Bởi doanh nghiệp vừa tham gia vốn, vừa chuyển giao kiến thức quản trị, cách thức quản lý. Quay ngược lại, hợp tác xã cũng sẽ chuyển giao cho doanh nghiệp sự tử tế trong việc làm ra sản phẩm, sự chân thật, trung thực của người sản xuất.
Nếu chúng ta đều gặp nhau ở những điểm cuối cùng là đưa hàng hóa Việt xứng tầm ra thế giới, để cùng nhau phát triển thì tôi nghĩ hợp tác xã thể hiện được giá trị của nông thôn mới mang lại là thiết thực nhất.
Nhà báo Lê Thuý: Xin mời bà Thuỷ có ý kiến ạ?
Bà Cao Thị Thuỷ: Chúng tôi là một hợp tác xã theo kiểu mới. Nguyên nhân tôi nung nấu thành lập hợp tác xã ở đây vì khi nhắc tới huyện Ứng Hoà thì các huyện lân cận là vành đai xanh và ở đây chỉ làm đồng ruộng là chính. Nhưng có nhiều nguyên nhân khiến bà con bỏ ruộng rất nhiều. Chính vì thế tôi rất trăn trở.
Hiện tôi đã liên kết với 5 huyện, 12 thôn và liên kết với 2.000 hộ dân làm chuỗi liên kết và từ mỗi huyện, mỗi thôn thành lập một mô hình nhỏ để đổi cách làm ruộng truyền thống sang làm nông nghiệp thông minh.
Với mô hình này thì rất nhiều hợp tác xã rất muốn tôi đến liên kết để làm cho bà con. Tôi thấy rất hiệu quả rồi.
Nếu các hợp tác xã bây giờ dán dấn thân như bà Thu Vân - Chủ tịch Liên Minh hợp tác xã đã nói ở trên, liệu có ai dám dấn thân như hợp tác xã của tôi, kể cả không có tiền nhưng chúng tôi vẫn làm, chúng tôi vẫn đến khai hoang, khai phá những đồng ruộng bỏ hoang hàng trăm mẫu, và chúng tôi đã khai hoang thành một cánh đồng mẫu lớn đẹp.
Hiện nay, hợp tác xã của tôi đang quản lý 300 ha ruộng, chưa kể diện tích liên kết với các xã, như liên kết theo chuỗi chẳng hạn. Khi chúng tôi vào một thôn nhỏ, người dân họ bảo họ đã chán ruộng, không muốn làm nữa, thì chúng tôi sẽ làm và làm cho họ từng bước một.
Mỗi một thôn, chúng tôi lại có một chiến lược để giúp được người dân, để nhà nhà cùng giàu, người người cùng giàu, do vậy, tuỳ theo từng thôn, chiến lược của tôi sẽ khác nhau.
Nếu tôi vào một thôn có 100 hộ dân và có 100 mẫu ruộng, nhưng 50 hộ vẫn nghèo, vẫn phải làm ruộng thì làm sao ép họ bỏ ruộng được. Chính vì vậy, phải làm thế nào để giúp 50 hộ nghèo đó cùng song hành với hợp tác xã, vừa cấy được ở cánh đồng mẫu lớn cùng mình và mình cũng tạo được cánh đồng mẫu lớn đó. Còn 50 người đã cho thầu lại thì vẫn để họ làm bình thường và mình vẫn tạo ra được cánh đồng mẫu lớn. Tôi đã làm đúng như chiến lược đó và tôi thấy rằng bà con ở đâu cũng tâm phục, khẩu phục.
Nhiều hợp tác xã cứ hỏi rằng tại sao họ không thể thầu được ruộng. Là bởi nếu như chỉ vướng có 5 nhà thôi họ cũng không làm cánh đồng đó. Cái đó là sai lầm của người đứng đầu.
Lúc nãy, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã có nói rằng, nếu hợp tác xã nào dám dấn thân vào những gì mà họ tự phải bỏ công sức, phải bỏ ra những thiệt thòi thì chính hợp tác xã của tôi đang thiệt. Chúng tôi sẵn sàng dấn thân vào mặc dù kinh phí, tài chính hạn hẹp. Chúng tôi vẫn làm để bà con nhìn thấy, và khi nhìn thấy rồi thì có thể sẽ chuyển giao công nghệ được cho bà con.
Thứ năm tuần trước, tôi vừa họp với huyện Quốc Oai. Tôi thầu ở đó 200 mẫu ruộng. Trước đó có một công ty về làm, nhưng không biết làm thế nào, và sản lượng không trả nổi cho bà con. Sau đó, hợp tác xã của tôi đã đến cánh đồng bỏ hoang đó làm, và khi chúng tôi đến làm thì có 30 hộ dân đến xin làm cùng chung tôi. Tôi đồng ý ngay và bảo, các bác cứ yên tâm vào đây làm cùng chúng tôi. Khi người dân muốn thì hợp tác xã sẽ làm cùng dân, liên kết là như thế.
Hiện nay, hợp tác xã chúng tôi đang nỗ lực, cố gắng làm thế nào để tất cả đều áp dụng theo hướng nông nghiệp thông minh.
Như hợp tác xã Đoàn Kết được thành lập từ năm 2017. Lúc đó, tôi mua các máy cấy, nhưng mất nhiều công. Tôi làm được 2 năm thì cảm thấy hiệu quả không như mong muốn. Sau đó, năm 2021 tôi tìm hiểu trên mạng internet về máy bay nông nghiệp thông minh không người lái. Tôi thấy khi áp dụng vào nông nghiệp hiệu quả quá. Tôi tán với các chị em, ngày xưa đi làm ruộng thì phải đội nón lá, nhưng bây giờ có thể mặc váy đi làm ruộng, vẫn có gạo ăn. Đó là sự chuyển đổi hoàn toàn sang một trang mới.
Chuyển đổi số giúp HTX chuyển đổi mô hình kinh tế linh hoạt, phù hợp
Nhà báo Lê Thuý: Thưa bà Vân! Chuyển đổi số được xác định là "chìa khóa" tạo động lực cho kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển nhanh và bền vững. Bà đánh giá thế nào về thực trạng chuyển đổi số của các hợp tác xã hiện nay?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Chuyển đổi số thực sự là một công cụ rất quan trọng để phát triển và chuyển đổi mô hình kinh tế của hợp tác xã một cách linh hoạt, phù hợp, để đạt được hiệu quả kinh tế cao, tiết giảm được chi phí, tối ưu được nguồn lực.
Ví dụ như chị Thủy nói, chỉ cần 12 đến 15 người ở hợp tác xã Đoàn Kết mà vẫn quản lý được một mô hình với quy mô rộng. Bên cạnh đó, chị Thuỷ còn ứng dụng thiết bị thông minh là máy bay không người lái để giải phóng sức lao động rất lớn. Tư duy đó chị Thuỷ làm ở cánh đồng mẫu lớn, và tư duy đó buộc mọi người phải làm ra một hàng hóa mà hướng đích cuối cùng là người tiêu dùng chứ không phải là theo nhu cầu của người sản xuất.
Điều đó cho thấy, thay đổi tư duy rất quan trọng mà chỉ có chuyển đổi số buộc cho con người chỉ có con đường đó để lựa chọn. Chuyển đổi số tác động thay đổi nhanh, nếu không nhanh chúng ta sẽ mất cơ hội, bởi vì có những hàng hoá, chỉ cần một tháng thôi là sản xuất hàng hoá trên thị trường có thể không ai mua. Cho nên những người hiện nay cần liên kết họ phải thay đổi nhanh và thay đổi một cách đồng bộ thì chuyển đổi số góp phần là một công cụ quan trọng của nhiều công cụ khác.
Chúng tôi đã thực hiện một đợt khảo sát với 1.000 hợp tác xã trong cả nước, với hơn 80 tiêu chí. Kết quả cho thấy, về trình độ, có trên 35% người trực tiếp quản lý hợp tác xã là chưa qua đào tạo trường lớp nào, vì vâỵ họ sẽ bằng thói quen, bằng kinh nghiệm, bằng tấm lòng để quản lý; còn lại 65% người là tiếp cận được những khoá đào tạo, bồi dưỡng nhưng chưa có hệ thống.
Thứ hai, về kỹ năng phục vụ chuyển đổi số, điểm trung bình của hợp tác xã chỉ đạt từ 2/5 điểm, có một số hợp tác xã đã cán mức 2,5 điểm, như hợp tác xã Đoàn Kết của chị Thuỷ có thể đạt được 2,5 điểm, thậm chí còn muốn làm hơn nữa. Nhưng vì kinh phí hoặc chính sách ưu đãi cho chuyển đổi số chưa có. Trong khi đó, việc đầu tư cho sản xuất đối với một hợp tác xã như ở hợp tác xã Đoàn Kết thì tính trên diện tích chứ không tính trên việc ứng dụng công nghệ. Cho nên, chỉ có thể tiếp cận nguồn vốn quá ít so với nhu cầu của một hợp tác xã đang đẩy mạnh chuyển đổi số. Đây là một điểm nghẽn trong một số chính sách của chúng ta hiện nay.
Về tần suất sử dụng ứng dụng để phục vụ cho sản xuất thì điểm trung bình khoảng từ 1- 1,9/5 điểm.
Sau khi chúng ta tiến hành đánh giá tổng hợp như thế chúng tôi thấy rằng, hợp tác xã đang ở giai đoạn đầu của mức độ 2 là giai đoạn đầu của sự bắt đầu chuyển đổi số. Và có thể nói còn hơi xa để rút ngắn khoảng cách để hợp tác xã tiến tới mức độ 3. Thật sự, đến mức độ 3 mới gọi là chuyển đổi đổi số. Lúc này, từ khâu quản lý, quy trình sản xuất, chế biến và đưa ra tiêu thụ mới thành một khâu chuyển đổi số.
Chuyển đổi số là phải có cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý, phần mềm ứng dụng,... hàng loạt các phần mềm đó cuối cùng đưa lên một nền tảng để nhiều người biết đến giá trị của nó và cuối cùng là giá trị hàng hóa phải mang chuyển đổi số thì chuyển đổi số phải trả lại giá trị hàng hóa khác.
Hiện nay kinh phí của nhà nước mình đầu tư về chuyển đổi số rất lớn nhưng riêng hợp tác xã thì họ vẫn còn có một cái gì đó là chưa cụ thể, chưa sâu.
Tôi kỳ vọng rằng, sắp tới, chúng ta khi triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã, khi có nghị định, thông tư, chắc chắn rằng sẽ thể hiện một trong những nội dung đó, giải quyết được bài toán đó. Nhưng cuối cùng giải bài toán nào thì giải nhưng hợp tác xã phải là chủ thể quyết định.
Ví dụ như ở hợp tác xã Đoàn Kết, trong lúc chính sách chưa kịp đến đầy đủ nhưng chị dám dấn thân, dám quyết tâm, dám đầu tư thì chị Thuỷ vẫn làm được. Với toạ đàm này, tôi cũng mời gọi chị liên hệ với Liên minh Hợp tác xã của Thành phố Hà Nội để tiếp cận với nguồn vốn. Nếu nguồn vốn chưa đảm bảo, chị tiếp tục đề nghị Liên minh Hợp tác xã của Thành phố Hà Nội giới thiệu cho chị, hoặc chúng tôi sẽ đề nghị Quỹ hỗ trợ của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tiếp cận, xem hợp tác xã Đoàn Kết là một khách hàng tiềm năng lớn, để đầu tư thêm nguồn lực. Để cho những hợp tác xã như hợp tác xã Đoàn Kết phát triển.
Điểm qua những điều đó để thấy rằng, sự chuyển động về nhận thức, sự thay đổi về hành động và sự quyết tâm của hợp tác xã trong việc tham gia vào chuyển đổi số đã thành hiện thực. Chỉ còn một việc như tôi nói là chúng ta tiến tới xây dựng khung kiến trúc cho họ. Cần có những định chuẩn, định lượng và phải có định mức để đầu tư chuyển đổi số, để khi hợp tác xã xây dựng định mức này có thể tiếp cận các nguồn vốn, kể cả nguồn vốn của của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội khác mà họ muốn đầu tư cho hợp tác xã. Hiện nay không có định mức nào, nên rất khó đầu tư.
Hiện nay đưa chương trình xây dựng NTM vào và chuyển đổi số cho các hợp tác xã sẽ vướng theo định mức nào, đầu tư như thế nào thì tôi nghĩ hiện nay chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức, thay đổi nhận thức, còn đầu tư thực sự cho chuyển đổi số thì chưa bài bản.
Nhà báo Lê Thuý: Là chủ của hợp tác xã sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Xin bà Thuỷ cho biết, ý tưởng nào đầu tiên đã dẫn dắt bà thành lập hợp tác xã này?
Bà Cao Thị Thuỷ: Trước kia, tôi chỉ là một người chuyên thu mua lúa gạo cho bà con. Sau đó, tôi thấy lúa gạo được bà con bán không đồng đều. Lúc đó, tôi chỉ là một đại lý lớn, tôi đã nhìn thấy như thế. Tôi nghĩ mình sẽ phải thành lập hợp tác xã. Thực sự việc thành lập hợp tác xã này với mục đích là để liên kết thành nhóm chứ chưa thể thành hợp tác xã được.
Khi nhìn thấy những cánh đồng bỏ hoang đó thì mong muốn của tôi là muốn liên kết hàng chục hộ dân này để cấy lúa, xoá cánh đồng hoang hoá là chính.
Và chúng tôi thành lập hợp tác xã vào năm 2017, đến nay chúng tôi đã tạo được cánh đồng mẫu lớn và tạo được 1 nhãn hiệu gạo tập thể. Hiện chúng tôi đang quản lý nhãn hiệu gạo tập thể ở khu Cháy Ứng Hòa với số lượng gạo rất lớn, đó là gạo Japonica J02 và đã xuất khẩu sang các nước tuy nhiên chúng tôi phải liên kết với một công ty xuất nhập khẩu để xuất gạo ra nước ngoài.
Thực sự hiện nguồn vốn của hợp tác xã khá hạn hẹp, nên chúng tôi phải đi tìm các mối liên kết. Hợp tác xã chúng tôi liên kết với bà con nông nhân và liên kết tiếp với một công ty xuất nhập khẩu. Hiện nay, sản lượng mỗi năm chúng tôi xuất khẩu từ 3 – 4 nghìn tấn cho công ty xuất nhập khẩu.
Vừa qua, chúng tôi cũng tham gia và dự thi chấm điểm về gạo OCOP đạt 4 sao năm 2019 và năm 2023 gạo của chúng tôi tiếp tục đạt 4 sao.
Nhà báo Lê Thuý: Vậy trong quá trình hợp tác xã thực hiện chuyển đổi số đã gặp những thuận lợi và khó khăn cũng như thách thức nào? Làm thế nào để khắc phục được những khó khăn đó, thưa bà Thuỷ?
Bà Cao Thị Thuỷ: Hợp tác xã chúng tôi chuyển đổi số về tư duy chiến lược, đã thực hiện được như ý và rất được lòng bà con nông dân. Chúng tôi đã liên kết với các nông dân và các công ty xuất khẩu. Nói thật bây giờ chúng tôi chỉ thiếu vốn. Nguồn lực chính là nguồn tài chính mà nếu thiếu thì không thể phát triển hơn được.
Các cụ đã nói, “có buôn tài thì cũng không bằng dài vốn”, vì thiếu vốn mà chúng tôi cũng mong muốn được đề nghị Liên minh Hợp tác xã Hà Nội, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam giúp đỡ.
Hợp tác xã chúng tôi là hợp tác xã ở vùng quê, hiện nay chúng tôi có ý định, nếu được chính quyền địa phương tạo điều kiện cho chung tôi thuê mặt bằng thì chúng tôi sẽ xây dựng nhà máy.
Thứ hai, chúng tôi mong muốn các cấp, các ngành quan tâm, hỗ trợ không riêng gì hợp tác xã chúng tôi mà hỗ trợ cho tất cả các hợp tác xã để cùng nhau phát triển, thực hiện chuyển đổi số và thay đổi tư duy làm nông nghiệp thì mới có thể mạnh được.
Nhà báo Lê Thuý: Mặc dù chuyển đổi số được xác định là "chìa khóa" tạo động lực cho kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển nhanh và bền vững, tuy nhiên, chuyển đổi số vẫn là một từ khoá rất mới mẻ và không ít hợp tác xã còn khá e ngại trong việc thực hiện chuyển đổi số, vì sao vậy thưa bà Vân?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Chúng ta đều có thống nhất đánh giá chuyển đổi số là đòn bẩy rất quan trọng tạo ra những cơ hội để giúp cho khu vực kinh tế tập, thể hợp tác xã phát triển.
Theo khảo sát của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, có 83,5% hợp tác xã đánh giá việc chuyển đổi số là cần thiết; có khoảng 20% hợp tác xã đã có kế hoạch với lộ trình thực hiện cụ thể, trong đó đã có hợp tác xã triển khai thực hiện rồi, đồng thời cũng có hợp tác xã mới bắt đầu bắt tay thực hiện; có 68% hợp tác xã có sử dụng ít nhất một trong các phương thức chuyển đổi số như giới thiệu và bán sản phẩm trực tuyến, hoặc ứng dụng một phần công nghệ thông minh vào trong sản xuất, ví dụ như hợp tác xã Đoàn Kết của chị Thủy hiện đang sử dụng máy bay không người lái vào một quy trình sản xuất.
Việc chuyển đổi số tại các hợp tác xã hiện nay là còn chậm do rất nhiều nguyên nhân. Trong đó khó khăn nhất là do 3 nguồn lực quan trọng trong hoạt động sản xuất.
Thứ nhất là nhận thức của hợp tác xã về chuyển đổi số còn hạn chế, vẫn còn 1 bộ phận thành viên, quản lý hợp tác xã khi nhắc đến chuyển đổi số thường có suy nghĩ đây là công việc của các cơ quan ban ngành Nhà nước, bởi họ nghĩ rằng bao đời nay họ vẫn sản xuất, vẫn canh tác mà đâu cần chuyển đổi số và họ không nghĩ được rằng mọi thứ phải xuất phát từ chính họ, từ ý tưởng, kế hoạch... thực hiện đều phải tạo ra từ họ.
Thứ hai là chi phí đầu tư cho các giải pháp ứng dụng chuyển đổi số và duy trì vận hành là vấn đề còn nhều thách thức, nhất là đối với các hợp tác xã có quy mô vận hành nhỏ còn khá cao do nguồn vốn đầu tư, kinh doanh hạn hẹp.
Việc tiếp cận các Quỹ hỗ trợ cho hợp tác xã trong quá trình đầu tư cho chuyển đổi số còn nhiều hạn chế, vướng mắc về cơ chế. Đầu tư cho hợp tác xã hiện nay có 2 việc là đầu tư xây dựng có định mức định chuẩn, thứ hai, quỹ hợp tác xã mở ra cho một phần vốn lưu động, còn đầu tư cho chuyển đổi số mới bắt đầu chứ chưa có định mức.
Ví dụ, chúng tôi sẽ đầu tư cho chị Thuỷ mua chiếc máy bay không người lái - đây là đầu tư cơ bản chứ không phải là là đầu tư chuyển đổi số. Cho nên lãi suất và các chế độ chính sách khác chưa ưu đãi.
Thứ ba là hợp tác xã đang khó khăn trong việc cần nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn phù hợp. Ai sẽ đào tạo, ai sẽ bồi dưỡng họ. Khung đào tạo thế nào, bồi dưỡng ra sao hay cứ để cho hợp tác xã tự bơi. Đây là vấn đề mà hợp tác xã đang vướng cần phải có sự tiếp sức.
Còn nhiều vấn đề khác như hiện nay đang thiếu quy định cơ chế chính sách ưu đãi riêng đặc thù cho hợp tác xã khi tham gia vào chuyển đổi số; còn thiếu những kiến thức, biện pháp để tự bảo vệ mình trên không gian mạng.... hiện nay, như vấn đề bảo mật, an ninh an toàn thông tin trong quá trình chuyển đổi số nếu không khéo thì sẽ bị lợi dụng, bị tấn công bởi tội phạm mạng. Một số hợp tác xã cũng lo sợ và họ nói rằng họ không có khả năng và lợi bất cập hại.
Từ đó cho thấy, chúng ta cần có những giải pháp để cho hợp tác xã bớt e dè khi tiếp cận chuyển đổi số.
Đầu tiên, chúng ta phải giúp họ nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, cách tiếp cận cho đây là sự sống còn của mình. Nó là chìa khoá, vậy nếu không có chìa khóa thì không thể mở.
Thứ hai là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hợp tác xã, kèm theo đó là những chính sách.
Thứ ba, huy động nguồn lực tài chính giúp cho hợp tác xã chuyển đổi số. Nguồn lực của chính họ, nguồn lực từ nhiều nguồn khác…
Thứ tư, xây dựng mô hình hợp tác xã điểm để thực hiện chuyển đổi số để học hỏi nhau. Ví dụ như lĩnh vực nông nghiệp đi sâu vào chìa khóa nào, lĩnh vực dịch vụ hay lĩnh vực khác thì đi sâu theo hướng nào...
Cuối cùng là các ngành, các cấp, trong đó có Liên minh hợp tác xã phải xây dựng đội ngũ chuyên gia tư vấn về chuyển đổi số cho hợp tác xã.
Chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống thông tin vừa quản lý nhà nước về hợp tác xã trong xây dựng nền tảng số dùng chung cho hợp tác xã. Chúng tôi kỳ vọng với vai trò là bảo vệ ,đại diện cho hợp tác xã, chúng tôi sẽ nỗ lực. Nói gì thì nói, trách nhiệm của Liên minh hợp tác xã là phải đề xuất những chính sách đó, giải pháp đó, để Chính phủ, các ban, ngành tham gia hoàn thiện những chính sách đó.
Nhà báo Lê Thuý: Để chuẩn bị cho công cuộc chuyển đổi số, theo bà Thuỷ thì các hợp tác xã phải làm gì? Về phía doanh nghiệp mình, công tác chuyển đổi số hiện nay đang được triển khai trong hợp tác xã ra sao?
Bà Cao Thị Thuỷ: Hợp tác xã Đoàn Kết hiện nay đang có chiến lược để liên kết với nhiều hợp tác xã khác để cho ra số lượng hàng hoá lớn và sẽ tiêu thụ cho hợp tác xã và cho bàn con. Bên cạnh đó, liên kết từ khâu gieo trồng cho đến khâu thu hoạch.
Tiếp đó thì chúng tôi có hướng là xây dựng nhà máy để thu mua các sản phẩm sau thu hoạch của bà con để chế biên, sấy, đóng gói, xuất khẩu đi các tỉnh và các nước.
Hiện nay, chúng tôi đang thu hoạch sản phẩm bằng máy đập liên hợp. Riêng về máy bay thì thực hiện 3 trong 1, tức là không phải cấy như ngày xưa mà vừa rải giống, vừa bón phân và phun thuốc bảo vệ thực vật. Tất cả theo một quy trình.
Sau thu hoạch sẽ có một hệ thống sấy và bảo quản sau chế biến xay xát. Còn nếu liên kết với các công ty lớn thì sẽ xuất khẩu thẳng cho các công ty.
Nhà báo Lê Thuý: Thưa bà Vân, một trong những giải pháp thúc đẩy ứng dụng chuyển đổi số là ứng dụng công nghệ số để phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm tại địa phương, giúp cho các hợp tác xã xây dựng thương hiệu, lên sàn thương mại điện tử để giới thiệu, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm,.... Tuy nhiên, hiện nay nhiều hợp tác xã đang “loay hoay” vì chưa biết triển khai từ đâu và như thế nào. Là cơ quan đại diện của hợp tác xã, bà Vân cho biết thực trạng này ra sao?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Nói cho công bằng thì nhiều hợp tác xã hiện nay họ đã biết bắt đầu từ đâu và họ đã triển khai. Tuy nhiên đúng là việc xây dựng thương hiệu, kết nối thương mại điện tử, ai cũng biết đây là một xu hướng tất yếu để chúng ta mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Song hiện nay, nhiều hợp tác xã vẫn còn loay hoay về những lý do cơ bản sau đây:
Một là trang thiết bị công nghệ để phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin của các hợp tác xã như: máy tính để bàn, laptop. Ví dụ như ở một số hợp tác xã hiện nay vẫn không có máy tính, máy scan… vừa rồi, chúng tôi đến thăm một số hợp tác xã và tặng cho họ một số máy móc như máy tính chẳng hạn, sau khi được tặng họ rất hạnh phúc. Họ thấy hạnh phúc thì bản thân mình lại thấy buồn vì đương nhiên họ phải có nhưng họ chưa đầu tư, nói gì đến việc ứng dụng và mua các thiết bị cao hơn nữa.
Thứ hai, mặc dù tỷ lệ hộ thành viên có kết nối internet khá cao trên 81%, tuy nhiên việc sử dụng điện thoại thông minh cho mục đích sản xuất lại tương đối thấp và biến động, dao động từ 34-60%.
Đa phần các hộ thành viên thuộc các nhóm hợp tác xã khác nhau đều sử dụng các thiết bị thông minh phục vụ sản xuất, kinh doanh ở mức dễ hoặc bình thường. Tỷ lệ thành viên khó sử dụng các thiết bị này dao động ở mức từ 24-35%. Tỷ lệ các hộ thành viên biết cách truy cập hệ thống phần mềm để tải ứng dụng chỉ ở mức từ 34-61%.
Thứ ba là vấn đề mà nhiều hợp tác xã gặp khó khăn và loay hoay nữa đó là quy mô sản xuất và tài chính của hợp tác xã còn nhỏ, hạn chế nên việc đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin và triển khai ứng dụng thương mại điện tử của hợp tác xã chưa được như mong muốn. Tuy nhiên, cũng có nhiều hợp tác xã rất thông minh. Họ sử dụng các nền tảng khác để quảng bá.
Thứ tư, các thành viên hợp tác xã thường gặp khó khăn khi kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử chính là phải mất rất nhiều thời gian vào việc đăng tải, giới thiệu thông tin sản phẩm và đưa lên sàn. Hay nói cách khác, kỹ năng đưa sản phẩm lên sàn thương mại cần phải học, phải có thời gian thẩm thấu. Nhiều đơn vị hiện nay cũng đã giúp cho hợp tác xã để gỡ rối vấn đề này.
Để hợp tác xã không loay hoay với những lý do đó, tôi thấy cần giải quyết 4 vấn đề nêu trên. Vấn đề là chúng ta phải đầu tư, phải xây dựng kế hoạch chuyển đổi số với hợp tác xã, kể cả hợp tác xã nhỏ bé, quy mô thế nào. Như tôi nói ban đầu hợp tác xã phải có khung hướng dẫn, phần mềm dùng chung.
Hiện nay hợp tác xã có phần mềm dùng chung về kế toán để giảm bớt, thì chúng ta phải giúp hợp tác xã có những hoạt động chung đó. Ngoài ra, có những hợp tác xã nào họ tạo được sự riêng biệt thì họ sẽ phát triển nhanh.
Nhà báo Lê Thuý: Những năm gần đây, nhiều hợp tác xã đã tiếp cận chuyển đổi theo mô hình hợp tác xã kiểu mới, linh hoạt, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, thích ứng với nhu cầu thị trường. Xin bà có thể dẫn chứng cho chương trình một số hợp tác xã tiêu biểu hiện nay?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Một trong những hợp tác xã tiêu biểu hiện nay là hợp tác xã Đoàn Kết của chị Thuỷ. Với sự yêu thương của hạt lúa quê hương, chị Thuỷ đã trăn trở tài nguyên của mình bị lãng phí, bỏ hoang, bắt đầu từ một người bình thường, từ người đi thu mua tiêu thụ, nhận thấy việc sao mình bán khó, mua khó, chị mới nghĩ ra mô hình hợp tác xã để làm chuỗi liên kết, kết nối người sản xuất, người tiêu thụ. Đây là một trong những mô hình đã thành công.
Còn có nhiều hợp tác xã như hợp tác xã Nông nghiệp Ái Nghĩa (huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) họ đã nỗ lực số hóa dữ liệu, sử dụng các công nghệ số, dùng mạng Internet để tra cứu thông tin mùa vụ, thời tiết, sâu bệnh, thổ nhưỡng, giống cây trồng, con vật nuôi, cập nhật toàn bộ kiến thức sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm của hợp tác xã được trang bị đầy đủ hệ thống tem, mã vạch, truy xuất nguồn gốc với quy trình sản xuất an toàn. Từ đó, họ đẩy mạnh quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại, đa dạng hóa và số hóa hình thức tiêu thụ sản phẩm như bán hàng online thông qua nền tảng xã hội, sử dụng các App công nghệ để giao hàng cho khách hàng. Với một khát vọng ban đầu có thể không lãi nhiều, nhưng khát vọng của họ là hàng hoá đến được với mọi người tiêu dùng bằng nhiều hình thức. Tôi kỳ vọng hợp tác xã Đoàn kết của chị Thuỷ cũng làm được điều đó. Có những lúc, mình không thể bán bao gạo 10kg, 5kg mà mình đóng hộp gạo 1kg thôi để gạo cũng là một quà tặng.
Mô hình hợp tác xã ứng dụng công nghệ 4.0 để sản xuất lúa trên “cánh đồng lý tưởng” của hợp tác xã nông nghiệp Mỹ Đồng 2, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Hợp tác xã ứng dụng đồng bộ nhiều công nghệ thông minh 4.0 ở các khâu canh tác lúa như: Thiết bị quan trắc môi trường nước tự động để đo cảm biến và theo dõi các chỉ tiêu độ mặn, nhiệt độ, pH mức nước… để khi sản xuất hạt lúa đó người dùng đáng sử dụng.
Hay mô hình thủy sản, trồng trọt ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hợp tác xã đã dùng phần mềm quản lý hợp tác xã, dùng hệ thống phần cứng IoT và phần mềm để quản lý các chỉ số môi trường nước phục vụ nuôi cá trắm lồng trên sông; hợp tác xã là hạt nhân để quản lý các dịch vụ công đồng khác bằng công nghệ thông tin.
Mô hình quản lý chè San Tuyết của hợp tác xã chế biến chè Phìn Hồ. hợp tác xã đã ứng dụng công nghệ thông tin lập bản đồ định vị vị trí của các cây chè Shan tuyết cổ thụ. Họ hái cây chè nào, sấy ra sao. Họ làm cho mình có niềm tin, mình uống chè mà nhìn được cây chè. Và hiểu được quy trình sản xuất của cây chè. Nếu cần có thể đi đến đó để trải nghiệm, kiểm tra cây chè đó. Hay nói cách khác là du lịch trải nghiệm.
Rồi hợp tác xã nông nghiệp mãng cầu Thành Tân (thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh) là một trong số hợp tác xã nông nghiệp trên cả nước sớm chủ động ứng dụng công nghệ cao trong hoạt động. Theo đó, hợp tác xã từng bước ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý tại hợp tác xã. Trong quá trình chăm sóc, hợp tác xã ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước kết hợp bón phân, từ đó tiết kiệm chi phí, tăng năng suất.
Còn rất nhiều hợp tác xã họ đã thực hiện được những điều đó nữa….
Nhà báo Lê Thuý: Thưa bà Thuỷ, để thực hiện chuyển đổi số, được biết, một trong những khó khăn của các hợp tác xã hiện nay là việc đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử. Vì sao vậy thưa bà Thuỷ? Theo bà, chúng ta phải khắc phục vấn đề này như thế nào?
Bà Cao Thị Thuỷ: Như hợp tác xã Đoàn Kết là khó khăn về bao bì, nhãn mác. Hiện các sản phẩm của hợp tác xã đã đưa lên sản thương mại điện tử và chúng tôi cũng đang triển khai một số công đoạn.
Về khó khăn, thực sự, những hợp tác xã như chúng tôi là phải dần dần từng bước học hỏi các hợp tác xã khác.
Nhà báo Lê Thuý: Việc họ sử dụng các sàn thương mại điện tử đó có gặp khó khăn gì? Ví dụ như trình độ của người thực hiện, việc vận hành có gặp khó khăn không, thưa bà?
Bà Cao Thị Thuỷ: Mục đích của chúng tôi hiện nay là đang sản xuất, nên việc đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử chưa nhiều. Chúng tôi đang liên kết chủ yếu với các công ty xuất khẩu để xuất khẩu thẳng sang các nước. Bên cạnh đó, chúng tôi còn bán vào các tổng đại lý vì số lượng họ đặt hàng rất lớn chứ chưa cần thiết phải bán trên sàn điện tử bán theo online.
Vừa rồi có đối tác Hàn Quốc muốn đặt hàng về gạo nhưng chúng tôi không còn đủ số lượng để bán.
Tích cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số xây dựng NTM thông minh
Nhà báo Lê Thuý: Hiện nay, vùng đồng bào DTTS và miền núi có số lượng hợp tác xã không nhiều, quy mô lại nhỏ. Theo bà Vân, chúng ta phải làm gì để giúp các hợp tác xã nơi này đẩy mạnh chuyển đổi số?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Hiện nay, số lượng hợp tác xã ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi chiếm rất lớn. Có 11.558 hợp tác xã, chiếm 42,4% tổng số hợp tác xã của cả nước. Tuy nhiên, đây là những hợp tác xã có quy mô nhỏ. Việc các hợp tác xã có quy mô nhỏ là do đặc điểm, con người, khu vực, vùng đất đó đi lại khó khăn…
Ở đó, chúng ta mới đạt được việc là thành lập hợp tác xã để cùng nhau sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập, giải quyết được nhiều những vấn đề về an ninh nông thôn, và nhiều vấn đề khác. Tôi nghĩ rằng chuyển đổi số về lĩnh vực này càng khó. Do đó, Ủy ban dân tộc và các chương trình xây dựng nông thôn mới đều có sự chăm sóc, quan tâm, đầu tư nhiều nguồn lực cho chuyển đổi số của khu vực này.
Ví dụ như hiện nay Liên minh Hợp tác xã đang xây dựng sàn giao dịch thương mại cho một hợp tác xã những sản phẩm của khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhưng thực sự công tác chuyển đổi số ngoài khó khăn chung của các hợp tác xã thì đương nhiên họ sẽ có nhiều hơn. Ví dụ như về cơ sở hạ tầng, tỷ lệ bao phủ sóng Internet chưa bao quát hết, vẫn có những nơi vẫn còn lõm sóng do địa hình, hoặc do đầu tư quá lớn các nền tảng cũng gặp khó khăn. Rồi chưa kể nhận thức của họ nữa nên chưa tiếp cận nhiều.
Tuy nhiên lĩnh vực này là ứng dụng công nghệ số khá lớn. Có nhiều anh chị được tập huấn cách bán hàng ra sao, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử thế nào, quay thế nào để ảnh đẹp nhất… Chúng tôi tập trung rất nhiều giải pháp và nhiều tổ chức khác cũng hỗ trợ. Do vậy, hiện nay, hợp tác xã khu vực này được tiếp cận được với ứng dụng công nghệ số rất tiến bộ.
Tuy nhiên để lâu dài và có bài bản như chị Thuỷ nghĩ rằng hàng hoá như thế là đủ rồi, chị không cần nữa, nhưng theo tôi, hợp tác xã nên có chiến lược để nhiều người biết đến hàng hóa của mình, nâng cao giá trị hàng hóa. Nhiều người mua, nhiều người cần thì đương nhiên từ đó chị có đủ cơ hội để tự lớn lên và tự tổ chức xuất khẩu.
Hay giá trị hàng của chị Thuỷ phải lên nền tảng thông tin hết toàn bộ quy trình, sự kết nối giá trị đó thì hạt gạo của chị có thể được nâng lên giá trị. Chị tập dần cho họ biết được sản phẩm. Họ biết càng nhiều là thương hiệu của chị mới có giá trị.
Tôi nghĩ rằng, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào miền núi có một giá trị văn hóa bản địa rất lớn. Cho nên khi áp dụng công nghệ số có thể làm mô hình du lịch cộng đồng, kèm tiêu thụ sản phẩm hàng hóa. Do đặc thù điều kiện tự nhiên, con người, văn hóa, mà người ta muốn đến vùng này. Cho nên tôi thấy vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có cái khó nhưng cũng có lợi thế mà chỗ khác không có, quan trọng là chúng ta khơi đúng vị trí.
Và để giải quyết những vấn đề đó chúng ta phải làm các việc sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong xây dựng NTM trong khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Thứ hai, đẩy mạnh xây dựng chính quyền số trong xây dựng NTM, đặc biệt ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Biết rằng khó khăn, tốn kém và cần phải đầu tư cao hơn.
Thứ ba, đẩy mạnh kinh tế số trong phát triển kinh tế nông thôn. Tiếp tục ưu tiên đẩy mạnh quá trình số hóa, xây dựng bản đồ số nông nghiệp nông thôn, cơ sở dữ liệu một cách đồng bộ, để chúng ta quản lý được mã số vùng nguyên liệu, truy xuất được nguồn gốc với sản phẩm nông nghiệp nông thôn thành một bản đồ quản lý chung. Ví dụ như hợp tác xã này làm, hợp tác xã kia không làm thì nó sẽ không tạo ra một hệ thống chung.
Tập trung triển khai xã hội hóa, xã hội số trong xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong hoạt động lấy ý kiến sự hài lòng của người dân về kết quả xây dựng nông thôn mới.
Hỗ trợ các tổ chức và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ số đầu tư, phát triển và cung cấp dịch vụ trực tuyến về y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, môi trường nông thôn ở các địa phương.
Tuyên truyền, hướng dẫn và khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ số và kỹ năng an toàn, trọng tâm là dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ y tế số, giáo dục số, sử dụng các mạng xã hội, mua bán trực tuyến, thanh toán điện tử và khai thác tiện ích, tài nguyên số trên Internet. Nếu không sẽ trở thành con dao hai lưỡi.
Nếu sử dụng thì có thể sai, vi phạm, nên phải hướng dẫn cho người dân biết dùng vào các hoạt động một cách văn minh, lịch sự và có lợi cho kinh tế. Không phải dùng nền tảng này để làm những việc không suy nghĩ mà phải tự chịu trách nhiệm khi sử dụng các nền tảng này.
Đã đến lúc hợp tác xã cũng vậy, khi kêu gọi chuyển đổi, ứng dụng, mà không có công cụ hướng dẫn ngay từ đầu thì sau này kiểm soát rất khó khăn.
Do vậy, tôi thấy một giải pháp rất cần đó là hướng dẫn cách sử dụng đúng pháp luật và phù hợp với phong tục tập quán, văn hóa của người Việt Nam và sự ứng xử trên toàn cầu. Với những vấn đề đó thì chúng ta sẽ đạt được chuyển đổi số không chỉ phù hợp với sản xuất, phù hợp với hoạt động của hợp tác xã, mà phải phù hợp với nền tảng văn hóa và xã hội.
Nhà báo Lê Thuý: Vậy thưa bà Thuỷ, bà có thể chia sẻ những kinh nghiệm, cách làm hay của mình trong việc đưa hợp tác xã phát triển các mô hình hợp tác xã kiểu mới hoạt động hiệu quả, tạo ra những sản phẩm có giá trị?
Bà Cao Thị Thuỷ: Đã là một hợp tác xã thì phải dám nghĩ, dám làm. Đã là người đứng đầu của một hợp tác xã thì mình phải dám chịu trách nhiệm, dấn thân vào để làm thì chắc chắn sẽ thành công.
Trước mắt là sẽ gặp những khó khăn và không thể nào thuận lợi ngay được. Hiện nay, mục tiêu chính của chúng tôi là liên kết nhiều hợp tác xã khác, để từ nhiều hợp tác xã khác thì sẽ có nhiều hộ nông dân khác. Có thể số lượng tăng đến hàng nghìn, hàng vạn hộ nông dân. Điều đó nó sẽ tạo thành một chuỗi từ sản xuất, gieo trồng đến tiêu thụ rất bài bản. Hợp tác xã chúng tôi đang làm như vậy và được bà con hưởng ứng.
Nhà báo Lê Thuý: Để nâng cao vai trò của hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu, nhất là trong việc xây dựng nông thôn mới thông minh, Liên minh Hợp tác xã đã làm gì để hỗ trợ các hợp tác xã trong thời gian qua, thưa bà Vân?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Với số lượng mà hợp tác xã được công nhận trong xây dựng NTM, NTM kiểu mẫu, NTM nâng cao với 19 tiêu chí, trong đó có tiêu chí số 13 là hợp tác xã. Chúng tôi nghĩ rằng, điều đó đã thể hiện được vai trò, trách nhiệm, của toàn xã hội, của cấp ủy chính quyền, nhân dân trong việc thành lập, duy trì, nâng cao hợp tác xã.
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cũng góp một phần nhỏ bé vào, với trách nhiệm là người đại diện, là một tổ chức tập hợp các hợp tác xã lại, chúng tôi đang nỗ lực là nơi để tiếp nhận những chủ trương, chính sách và truyền tải những chủ trương, chính sách đến với các hợp tác xã, tham gia phản biện, tham gia góp phần xây dựng những chính sách để cho hợp tác xã phát triển.
Để đạt được những kết quả như mong muốn, ngoài nỗ lực của hợp tác xã và nỗ lực của các xã viên thì đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Thời gian qua, tôi thấy tất cả hệ thống chính trị đều quan tâm, thương yêu, chăm sóc, đầu tư bằng nhiều cách cho hợp tác xã. Đặc biệt là vai trò của các tổ chức đoàn thể như: Đoàn thanh niên tranh thủ nguồn lực, vận động những tri thức trẻ tham gia vào sáng lập, tham gia vào thành viên hợp tác xã. Hay như Hội phụ nữ có Đề án được Chính phủ phê duyệt “Vai trò của hội phụ nữ trong việc tham gia vào hợp tác xã và kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể”, từ đó xuất hiện nhiều tấm gương phụ nữ làm lãnh đạo hợp tác xã và nhiều hợp tác xã hội viên đều là phụ nữ hoạt động rất hiệu quả…
Thứ hai, chúng ta không thể bỏ rơi được công tác truyền thông. Trong đó vai trò rất lớn của báo chí trong việc tuyên truyền cho hợp tác xã.
Chúng tôi mong muốn rằng, nếu mỗi người dân của đất nước đều chọn hợp tác xã làm khởi nghiệp.
Tại sao không chọn là hợp tác xã làm khởi nghiệp, không là những sáng lập viên của hợp tác xã, tại sao sinh viên ít hiểu về hợp tác xã mà họ chỉ khát khao sau này trở thành tổng giám đốc của một công ty mà không có ước mơ trở thành giám đốc của hợp tác xã.... Vậy theo tôi, công tác truyền thông rất quan trọng.
Mỗi người ai cũng tự hào là mỗi tháng có một tháng của hợp tác xã, thì chúng ta có một ngày là ngày 11 tháng 4 là ngày Hợp tác xã Việt Nam - ngày mà Bác Hồ cách cách đây 71 năm đã đặt nền tảng viên gạch đầu tiên về mặt lý luận thực tiễn cho hợp tác xã. Hợp tác xã cũng là một loại hình mà cả thế giới đều quan tâm, chăm sóc. Đặc biệt là các nước phát triển họ vẫn xem hợp tác xã là một loại hình kinh tế quan trọng. Cho nên nhiều đất nước họ chỉ có một dân số nhưng xã viên hợp tác xã lại chiếm tới gấp 3 như: Hà Lan, Hàn Quốc…
Tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề, hoạt động chuyên sâu để giúp cho hợp tác xã tiếp cận với chuyển đổi số một cách bài bản, có hệ thống, để tìm ra được khung cơ bản nhất để hợp tác xã tham gia chuyển đổi số bắt đầu từ giai đoạn 1, giai đoạn 2, giai đoạn 3, và giai đoạn nâng cao.
Huy động nguồn lực để hỗ trợ thông qua các chương trình, dự án, giúp cho hợp tác xã chuyển đổi số một cách nhanh, có hiệu quả.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại trên nền tảng công nghệ số cho hợp tác xã, để đến nhanh nhất đến người tiêu dùng và họ có trách nhiệm với sản phẩm.
Thông qua các quỹ, trong đó có quỹ của Liên minh Hợp tác xã, tạo một kênh tín dụng để hỗ trợ cho hợp tác xã, để hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn với một lãi suất phù hợp, để đầu tư cho sản xuất của mình.
Phối hợp với các tổ chức quốc tế trong và ngoài nước để huy động nguồn lực hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã: tiếp tục triển khai hiệu quả chương trình, biên bản đã ký kết; tích cực làm việc, ký kết biên bản ghi nhớ, thỏa thuận hợp tác với các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế.
Nhà báo Lê Thuý: Để các hợp tác xã thực sự là “bà đỡ” cho người dân, thúc đẩy kinh tế vùng phát triển, góp phần xây dựng nông thôn mới. Chúng ta cần làm gì và cần có giải pháp chiến lược nào để đẩy mạnh xây dựng và phát triển hợp tác xã, nhất là ở các khu vực dân tộc thiểu số và miền núi, thưa bà?
Bà Cao Xuân Thu Vân: Kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã, là thành phần kinh tế quan trọng, cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Từ đó cho thấy, nhiều nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tổ chức, các bộ, ngành, chính quyền địa phương đều rất quan tâm, dành rất nhiều thời gian, công sức, kể cả nguồn lực kinh phí cho lĩnh vực này.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thì nhà nước có nhiều chính sách ban hành riêng. Tôi ví dụ như đối với Luật Hợp tác xã thì có dành riêng điều 6 nói về hợp tác xã của khu vực này. Điều đó là thể hiện rõ nét, và còn rất nhiều chính sách khác nữa. Quan trọng là để giúp cho mỗi người hiểu được chính sách, tiếp cận được chính sách và ứng dụng được chính sách đó mới là vấn đề. Đây là vấn đề chúng ta phải làm quyết liệt trong thời gian tới, trong đó có vai trò quan trọng của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã của các tỉnh.
Tất cả phải vào cuộc để chính sách đi vào đời sống. Chúng ta xem chính sách nào còn thiếu, chưa bao phủ, còn lạc hậu thì đổi mới kịp thời.
Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hợp tác xã ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi là điều cần thiết và phải được quan tâm đúng mức. Không còn cách nào như tôi nói là phải vào cuộc. Làm gì thì làm, nhưng hoạt động tuyên truyền, quảng bá, để cho mọi người đều hiểu đây là vấn đề quan trọng.
Thông qua cuộc tọa đàm hôm nay, tôi mong các cơ quan báo chí, trong đó có báo VietNamNet đồng hành cùng với hợp tác xã để triển khai nhiều chương trình, để mỗi người dân, hợp tác xã nhận thức thật cao nhu cầu và con đường đi đúng đắn của hợp tác xã.
Nên hợp tác xã nếu biết tận dụng được những hiểu biết và khai thác hết những loại hình này thì rất có lợi cho phát triển kinh tế, đảm bảo được công bằng xã hội.
Thưa quý vị và các bạn!
Do thời gian có hạn, buổi tọa đàm hôm nay xin được kết thúc tại đây. Một lần nữa, xin cảm ơn 2 vị khách mời đã tham dự chương trình.
Cảm ơn sự theo dõi của quý độc giả. Xin chào và tạm biệt!