Cách đây vài năm, khái niệm tài chính xanh còn khá mới mẻ với nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên, với bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra trên toàn cầu, là một trong những quốc gia có mức độ ô nhiễm hàng đầu hiện nay, Việt Nam ngày càng quan tâm đến vấn đề này. Đây được xem là giải pháp quan trọng, góp phần vào quá trình phát triển bền vững của nền kinh tế.
Tại Việt Nam, về khung pháp lý, Chính phủ đã có chiến lược phát triển thị trường tài chính xanh và một số Nghị định triển khai, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước cũng có một số Thông tư khuyến khích. Theo đó, Chiến lược tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tập trụng vào 3 nhiệm vụ gồm: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; Xanh hoá sản xuất; Xanh hoá lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Các chuyên gia cho rằng, phát triển tài chính xanh ở Việt Nam là hướng đi đúng đắn trong chiến dịch tăng trưởng xanh. Song, lộ trình này còn nhiều thách thức. Đơn cử như nhận thức về tài chính xanh còn hạn chế; chính sách, luật pháp còn thiếu hoặc chưa hỗ trợ hiệu quả việc phát triển tài chính xanh. Bên cạnh đó, các sản phẩm tài chính xanh trong ngân hàng tại Việt Nam còn thiếu phong phú; chưa có tính sẵn sàng; nguồn tài chính hỗ trợ cho các dự án xanh, sản phẩm xanh còn eo hẹp. Do đó, việc nâng cao nhận thức và hiểu biết về tài chính xanh trong phát triển bền vững, đồng thời xác định những cơ hội và thách thức trong quá trình áp dụng tại Việt Nam là điều cần thiết. Khi nhận thức của người dân được nâng cao, nhu cầu sử dụng các sản phẩm, công nghệ xanh cũng phát triển.
Tài chính xanh và tài chính xã hội đã gia tăng nhanh chóng những năm gần đây, đặc biệt ở khu vực tư nhân. Doanh nghiệp ngày càng hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững. Hơn 30 nghìn tỷ USD, tương đương 1/3 tài sản toàn cầu hiện nay đang được quản lý cùng với những cân nhắc về môi trường, xã hội và quản trị. Doanh nghiệp sử dụng tài chính xanh và tài chính xã hội để phòng ngừa các rủi ro đe dọa tính bền vững, thu hút các nhà đầu tư và xây dựng năng lực chống chịu kiên cường hơn trước các cú sốc khủng hoảng.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng cũng đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Mục tiêu đối với ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025 là 100% ngân hàng xây dựng được bộ quy tắc về quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; 100% ngân hàng thực hiện đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường cho các dự án được ngân hàng cấp vốn vay; kết hợp đánh giá rủi ro môi trường như một phần đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra, ít nhất 10-12 ngân hàng có đơn vị, bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường và xã hội; 60% ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn xanh và triển khai cho vay các dự án tín dụng xanh.
Quang Phong, Hồng Hạnh, Kim Chi