"Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc song hành tới danh hiệu di sản thế giới"
Hồ sơ Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là hồ sơ về quần thể di tích đầu tiên nằm trên địa bàn 3 tỉnh ở nước ta.
Hồ sơ có nhiều tiêu chí theo Công ước 1972 nhất, để có thể chứng minh và tuyên bố ra thế giới được giá trị “Nổi bật toàn cầu”, “Tính toàn vẹn”, “Tính xác thực”, 3 tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang đã đồng thời chỉ đạo triển khai cả 3 phương pháp: Vừa nghiên cứu, vừa chứng minh, vừa viết với tiến độ nhanh, tích cực, khẩn trương.
Ngày 29/9, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà có ý kiến đồng ý Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thay mặt Chính phủ ký Hồ sơ đề cử “Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc” (thuộc địa bàn các tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang và Hải Dương) gửi Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hoá của Liên hiệp quốc (UNESCO) để đề nghị công nhận và ghi vào Danh mục Di sản thế giới.
Phó Thủ tướng giao Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan liên quan làm các thủ tục cần thiết để gửi Hồ sơ tới Trung tâm Di sản thế giới UNESCO, bảo đảm thời gian theo quy định của Công ước Di sản thế giới 1972 và pháp luật về di sản văn hóa.
Cho đến nay, Hồ sơ khoa học Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc trình UNESCO công nhận là Di sản thế giới đã hoàn thành đúng tiến độ theo kế hoạch đề ra; chất lượng, nội dung, thành phần hồ sơ đã thực hiện theo Công ước di sản thế giới năm 1972 của UNESCO.
Theo kế hoạch, hồ sơ đề cử “Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc” sẽ trình lên UNESCO trước ngày 30/9/2023.
Hồ sơ chính thức “Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc” sẽ được trình lên UNESCO Paris trước ngày 31/12 năm nay.
Những dấu tích kiến trúc, di vật có giá trị rất mới, quý
Thời gian qua, các nhà nghiên cứu, khảo cổ học đã tiếp tục điều tra, nghiên cứu và đề xuất khai quật khảo cổ thêm 9 điểm di tích ở cả 3 tỉnh, gồm: Yên Sinh, chùa Trại Cắp (Trại Cấp), chùa - am Thung, chùa - am Hoa, chùa Bảo Đài ở Quảng Ninh; chùa Hồ Bấc, chùa Cao, chùa Đám Trì ở Bắc Giang; chùa Thanh Mai ở Hải Dương.
Qua khảo cổ đã phát hiện những dấu tích kiến trúc, di vật có giá trị rất mới, quý. Nhìn chung là dấu tích Phật giáo Trúc Lâm ở các khu vực này dày đặc và cho thấy sự phát triển, kéo dài liên tục từ thời Trần mới phát sinh, qua một thời kỳ trầm lắng, qua chiến tranh, sự thay đổi tư tưởng... đến thời Lê Trung hưng lại bùng lên, phát triển rực rỡ, khẳng định giá trị lớn lao của Phật giáo Trúc Lâm. Một số di tích đã phát triển qua thời Trần, Lê Trung hưng và tồn tại đến tận thời Nguyễn, tức là gần đến thời kỳ hiện đại sau này, như am Thung, chùa Thanh Mai, chùa Hồ Bấc.
Các di tích như am Hoa, am Thung và Bảo Đài có cùng mặt bằng phát triển vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII, chứng minh sự nối tiếp và phát triển liên tục của Phật giáo Trúc Lâm. Ở một khu vực dày đặc chùa như vậy mà ở thế kỷ XVIII, người ta lại tiếp tục xây dựng nên 2 ngôi chùa lớn, khá là quy mô ở Bảo Đài, có tấm bia ghi đó là khu vực phía Đông của Yên Tử. Điều đó cho thấy quy mô của Yên Tử không chỉ ở khu vực trung tâm núi Yên Tử, mà bốn phía đều phát triển ra...
Dấu tích thời Trần lại có 2 di tích mới tại cánh đồng đền Sinh và khu Trại Cắp. Ở An Sinh xuất lộ những dấu tích của kiến trúc mang tính chất vương quyền, giống với những di tích mang tính chất cung đình ở nơi khác, như Thăng Long (Hà Nội), Tam Đường (Thái Bình), Tức Mặc (Nam Định)... Do vậy các nhà khoa học đoán đó có thể là khu dinh thự cực kỳ to lớn, hoành tráng của quý tộc thời Trần ở An Sinh.
Chùa Trại Cắp hay chùa Đám Trì có vị trí nằm ở dưới thấp, khu vực đất đai màu mỡ, liền sát với Ngọa Vân, Hồ Thiên gợi cho chúng tôi suy nghĩ, các chùa có thể vừa là một trung tâm tôn giáo, thực hành nghi lễ của người dân trong khu vực, vừa là nơi cung cấp lương thực cho sư tăng trên các vùng núi cao thuộc Phật giáo Trúc Lâm ở khu vực núi Yên Tử, như chùa Ngọa Vân, chùa Hồ Thiên... Vậy là nó có quan hệ chặt chẽ với nhau và mở rộng mạng lưới các chùa Trúc Lâm thời Trần thành một hệ thống hoàn chỉnh, bên cạnh công việc tôn giáo là các vấn đề sinh hoạt, đời sống thường ngày của sư tăng Phật giáo Trúc Lâm.
Dưới thời Trần thì các thành tựu về xây dựng, bảo vệ đất nước đều phát triển và đạt được những thành tích có thể nói là vang dội, lừng lẫy cả thế giới, như 3 lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên thắng lợi, điều đó cả thế giới biết và khâm phục. Vương triều Trần đã xây dựng và phục hồi kinh tế bị suy thoái dưới thời Lý, thể chế hóa hệ thống tổ chức vương triều quốc gia rất hùng mạnh, trên cơ sở đó phát triển văn chương, nghệ thuật, rồi văn hoá tư tưởng, trong đó điển hình là tư tưởng thiền phái Trúc Lâm ở khu di sản này.
Nơi đây, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đến tu tập, xây dựng thiền phái, đào tạo tăng đồ, viết các trước tác để mà tuyên truyền tư tưởng Trúc Lâm - tư tưởng nhập thế, nghĩa là những người tu tập ở thời Trần xuất gia nhưng không xuất thế, người ta đem tư tưởng tích cực của họ vào sống giữa đời và truyền cho nhân dân một tinh thần dân tộc, tinh thần lạc quan, tinh thần yêu nước, tinh thần vui đời cũng là vui đạo, đạo với đời là một. Và từ đó lấy tư tưởng Trúc Lâm là bệ đỡ tư tưởng cho vương triều Trần, giữ cho đất nước không chỉ yên bình, bảo vệ được khỏi giặc ngoại xâm, mà còn phát triển đến giai đoạn rực rỡ. Trong nước, người dân phát triển cao về văn hoá cũng như truyền bá mạnh mẽ tư tưởng của Trúc Lâm, nên xã hội rất thanh bình. Người ta đã có nhiều bài thơ, câu thơ ca ngợi cảnh thanh bình đó của xã hội. Đấy là cái giá trị cơ bản.
Do giá trị của Thiền phái Trúc Lâm như vậy cho nên tư tưởng đó của Trúc Lâm sống rất lâu trong lòng xã hội Việt Nam, khởi phát từ thế kỷ XIII, phát triển qua các thế kỷ XV, XVI, rồi phục hưng mạnh mẽ ở thế kỷ XVII, XVIII, và tồn tại cho đến ngày nay.