Quán triệt tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng
(Tiếp theo và hết)
Phần I - Tính “bất biến” trong văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Bấm vào đây để xem phần I)
Phần II - Tính “Vạn biến” trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng
Hiện nay, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tap, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng nhưng đang phải đối mặt trước nhiều trở ngại, khó khăn. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á trở thành khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và ngày càng công khai, trực diện hơn. Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết và là thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới.
Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng - cái “bất biến”, các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng đã tiến hành tổng kết 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, từ đó kế thừa, phát triển sáng tạo trong hoạch định các sách lược chỉ đạo hành động trên mọi lĩnh vực. Nổi bật là:
Một là, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện
Thực tiễn hơn 90 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, xem đây là nhiệm vụ then chốt, quyết định đến sức mạnh, uy tín của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị về xây dựng Đảng1. Thông qua các cuộc chỉnh đốn Đảng đã mang lại những kết quả tích cực, nhiều mặt công tác xây dựng Đảng được đẩy manh và có chuyển biến mạnh mẽ, đạt kết quả quan trọng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương và chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên được triển khai tương đối đồng bộ ở các cấp đạt hiệu quả tích cực. Nhiều cán bộ, đảng viên đã đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; gương mẫu đi đầu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc xử lý kỷ luật nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cả cán bộ đương chức và nghỉ hưu đã giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa, tự điều chỉnh hành vi, tích cực rèn luyện đạo đức, lối sống, tác phong công tác. Công tác triển khai, thực hiện đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cũng đạt những kết quả nổi bật, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta cũng đã rút ra được bài học kinh nghiệm quý báu là: Nếu một đảng cầm quyền bị thoái hóa, biến chất; đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, mơ hồ về lý tưởng, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến”, thì tất yếu đảng đó sẽ bị mất vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, dẫn đến sự tan rã. Bởi vậy, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, làm cho Đảng đoàn kết, trong sạch, vững mạnh hơn, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng được tăng cường luôn là nhiệm vụ then chốt. Đó chính là việc tự đổi mới, tự hoàn thiện, giúp Đảng luôn có bản lĩnh chính trị kiên cường, tầm tư duy sáng suốt, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, hoàn thành sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được cấu thành bởi hệ thống các bộ phận khác nhau; trong đó, mỗi bộ phận lại là một hệ thống phức tạp, nhiều yếu tố. Song về cơ bản, gồm: (1) Các luật lệ, quy tắc điều hành nền kinh tế; (2) Các chủ thể tham gia vào hoạt động trong nền kinh tế; (3) Cơ chế thực thi các luật, quy tắc và điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể; (4) Hệ thống thị trường.
Đánh giá tình hình sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chỉ rõ: Quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn yếu, năng lực tiếp cận nền kinh tế số, xã hội số còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân được xác định có liên quan đến yếu tố nền tảng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả. Nhận thức sâu sắc mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công khai, minh bạch, bình đẳng, cạnh tranh theo pháp luật, Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng đề xuất “Lấy hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước”. Trong đó, cần tập trung sửa đổi những quy định không thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế xã hội. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử; đổi mới phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo. Đồng thời, hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới xuất hiện trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, thực hiện nhiều hình thức hội nhập quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.
Để xây dựng và phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cần có một thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tương thích. Đây là một quá trình hoàn thiện, đổi mới và sáng tạo không ngừng cả trong nhận thức, tư duy lý luận và thực tiễn đòi hỏi.
Ba là, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam
Một trong các đặc trưng của xã hội chủ nghĩa được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng xác định là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó, “tiên tiến” được hiểu là yêu nước và tiến bộ, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Còn “bản sắc dân tộc” bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Kế thừa, phát triển sáng tạo trong điều kiện mới, Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với phát huy ý chí, khát vọng phát triển và sức mạnh của con người Việt Nam trong thời kỳ mới”. Điều đó đã thể hiện tính “ứng vạn biến” trong đường lối của Đảng về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong thời đại mới. Để làm được điều đó, cần thực hiện những giải pháp đột phá, mạnh mẽ nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hoá Việt Nam. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hoá lãnh đạo, văn hoá quản lý, văn hoá công sở, văn hoá doanh nghiệp, doanh nhân; đề cao vai trò, trách nhiệm gia đình. Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, quy định, quy ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hoá. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hoá giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp, v.v. Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả của các loại hình văn hóa, văn nghệ. Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại. Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình thông tin trên internet; kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hoá, từng bước xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tích cực tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, nâng cao sức đề kháng của Nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại.
Bốn là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả, thích ứng năng động trước những biến chuyển của tình hình; tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy, hiểu biết lẫn nhau.
Ngoại giao Việt Nam cần phát huy tốt vai trò là “một mặt trận” tiên phong nhằm củng cố vững chắc môi trường quốc tế thuận lợi và thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ lúc nước chưa nguy. Các “binh chủng” của đối ngoại Việt Nam, gồm ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân cần đồng tâm, hiệp lực để tận dụng được những cơ hội mới và xử lý hiệu quả những thách thức phức tạp đang đặt ra. Tiếp tục giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân và công tác về người Việt Nam ở nước ngoài. Trong quá trình đó, Đảng ta luôn khẳng định, Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, và “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Đồng thời, khẳng định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước.
Năm là, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là quan điểm “bất biến” của Đảng ta, song trong từng thời điểm, bước ngoặt của cách mạng đều có sự vận dụng phù hợp, sáng tạo để thực hiện tốt quan điểm này. Trong các văn kiện trình Đại hội XIII, Đảng ta xác định: Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn kết với nền an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2030 một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại; phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng miền, trên biển. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo. Tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh trong khu vực phòng thủ. Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững ổn định chính trị an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống. Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chinh trị, trật tự, kỷ cương, bảo đảm an ninh kinh tế, xã hội, an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm từ xa, phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, có thể gây đột biến. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh quốc gia, an toàn thông tin, an ninh mạng,... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
Bên cạnh những thuận lợi là chủ yếu, đất nước đang phải đối mặt với không ít nguy cơ và thách thức, nhất là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta. Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, từng ban, bộ, ngành Trung ương, mỗi địa phương, mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tốt phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” theo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế. Trong đó, tuyệt đối phải đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội là “bất biến”; song song với đề cao cảnh giác, nắm chắc tình hình, phân định kịp thời đối tác, đối tượng, cần chủ động, nhạy bén, linh hoạt “ứng vạn biến” để không ngừng phát huy nội lực, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế của Đảng.
Quan điểm của Đảng ta về “dĩ bất biến”, “ứng vạn biến” được thể hiện trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng đã rõ ràng, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, trách nhiệm của Đảng trước sự phát triển toàn diện của đất nước; bám sát quy luật khách quan, nền tảng tư tưởng, tình hình thực tiễn đất nước để xác định chủ trương, đường lối lãnh đạo sát đúng, khoa học, tính khả thi cao, thể hiện “ý Đảng” thuận lòng dân. Thực tế là như vậy, song càng gần đến ngày Đại hội Đảng thì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại càng chống phá quyết liệt cả về văn kiện và nhân sự. Đối với văn kiện, họ đưa ra luận điệu: Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ là sự sao chép và biến tấu từ văn bản các đại hội trước, nội dung không có giá trị gì so với sự phát triển của đất nước mà ngược lại là nhân tố kìm hãm sự tiến bộ của dân tộc ta. Nội dung văn kiện cũng chỉ là những vấn đề sáo rỗng, giáo điều, bảo thủ, khư khư ôm giữ chủ nghĩa Mác - Lênin để duy trì quyền lực của Đảng mà thôi, v.v. Từ đó, họ viết bài tung lên mạng xã hội, tạo dư luận đòi Việt Nam phải thực hiện “đa nguyên”, “đa đảng”, “xã hội dân sự” và “đừng trông chờ vào Đại hội XIII của Đảng”. Cá biệt, một số đối tượng còn đưa ra những luận điệu xuyên tạc rằng, việc coi trọng “xây dựng, chỉnh đốn hệ thống chính trị” gắn với chỉnh đốn Đảng trong dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII cho thấy, Đảng đang lo ngại về vai trò và sức mạnh của Đảng, v.v. Trước tình hình đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần tỉnh táo, sáng suốt nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, giữ vững niềm tin vào Đảng, trực tiếp là các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, theo đúng tinh thần của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại cuộc họp Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII ngày 11/9/2020: “Văn kiện Đại hội là văn kiện rất quan trọng, không phải là nghị quyết bình thường mà là văn kiện 5 năm mới có một lần, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn, tính chính trị, rất cơ bản, còn lưu mãi trong lịch sử. Bởi vậy, các tầng lớp nhân dân, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học cần có nhiều ý kiến đóng góp tâm huyết, trách nhiệm để Đảng tiếp thu, chọn lọc, tìm tiếng nói chung để trình ra Đại hội”.
Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
__________________
1 - Điển hình là 4 nghị quyết: Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 26/6/1992, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 02/02/1999, Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/01/2012, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.