Hình mẫu Thái Lan
Số liệu từ Bộ Tài chính Thái Lan cho biết, vào năm 2025 với 14,5 triệu người trên 60 tuổi, chiếm 20,7% tổng dân số, xứ chùa Vàng sẽ chuyển sang giai đoạn già hóa. Trong khi đó, mức thu nhập đầu người của Thái Lan hiện chỉ đạt khoảng 7.500 USD/năm, là nền kinh tế có thu nhập trung bình. Để bước vào ngưỡng nền kinh tế thu nhập cao, GDP bình quân đầu người phải đạt mức trên 12.536 USD/năm. Khoảng cách này còn xa với Thái Lan, khó hy vọng trong đạt được trong 5 năm tới.
Thái Lan đã đạt GDP bình quân đầu người 1.000 USD/năm vào năm 1998 và có thời gian tăng trưởng kinh tế cao bình quân 7,5%/năm trước năm 1990, nhưng sau đó ngày càng chậm lại, giảm dần xuống còn 5,3%/năm, rồi 4,3%/năm trong hai thập kỷ qua và hiện nay khoảng 3%/năm.
Thái Lan đang đối mặt với thách thức là số người già tăng lên và lực lượng lao động giảm. Điều này khiến tỷ lệ phụ thuộc của người cao tuổi vào lực lượng lao động tăng lên. Hiện tỷ lệ này là 28,4/100 người, dự báo sẽ tăng lên 56,2/100 người vào năm 2040. Những thay đổi trong cơ cấu dân số của Thái Lan sẽ dẫn đến giảm năng suất, giảm tăng trưởng, đồng thời làm tăng cao chi phí chăm sóc sức khỏe, trong khi mức thu nhập đầu người thấp.
Nhiều nhận định cho rằng, Thái Lan sẽ trở thành quốc gia lớn đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á mắc “bẫy thu nhập trung bình”, “già trước khi giàu”.
Đây sẽ là minh chứng cho những quốc gia đang phát triển, nếu không bứt phá trong giai đoạn “dân số vàng" sẽ khó vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” và sẽ không bao giờ trở nên thịnh vượng.
Hình mẫu của sự “phát triển thần kỳ” trên thế giới thường được nhắc đến là Nhật Bản. Vào năm 1950, Nhật Bản bước vào thời kỳ “dân số vàng”, là quốc gia có nền nông nghiệp chủ đạo, năng suất lao động thấp, thu nhập GDP đầu người mức 1.000 USD/năm. Tuy nhiên, với sự phát triển thần kỳ từ 1955-1973 (18 năm), tăng trưởng GDP bình quân hàng năm khoảng 10%, đã thay đổi hoàn toàn quốc gia này. Sau 6.500 ngày “thần kỳ”, nước Nhật đã trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.
Nỗi lo Việt Nam
Việt Nam từ năm 2007 đã bước vào thời kỳ “dân số vàng”, với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm gần 70% dân số, trong đó khoảng một nửa là người trẻ, dưới 34 tuổi. Tuy nhiên, kết quả Tổng điều tra dân số Việt Nam năm 2019 cũng cho thấy, dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Năm 2019, cả nước có 11,4 triệu người từ 60 tuổi trở lên, chiếm 11,86% tổng dân số và chỉ số già hóa tăng từ 35,9% vào năm 2009 lên 48,8% vào năm 2019. Dự báo số người từ 65 tuổi trở lên sẽ đạt trên 10% vào năm 2026 và vượt 15% vào năm 2039. Đây cũng là thời điểm chấm dứt thời kỳ “dân số vàng” ở Việt Nam.
Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn là chất lượng nguồn nhân lực. Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ LĐ-TB&XH) cho biết, hiện có khoảng 55 triệu lao động nhưng chỉ 64,5% qua đào tạo, trong đó 24,5% có bằng cấp, chứng chỉ. Con số này chỉ bằng 1/3 so với các nền công nghiệp phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... Đến nay, nền kinh tế vẫn giữ nguyên cơ cấu sử dụng lao động giá rẻ, thiếu trầm trọng những lao động lành nghề, các nhóm có chuyên môn kỹ thuật, nhà quản lý, đổi mới sáng tạo. Đây mới là những nhóm có khả năng dẫn dắt nền kinh tế.
Muốn trở thành quốc gia phát triển, các ngành công nghiệp phải phát triển. Tuy nhiên, theo báo cáo gần đây của Bộ Công Tthương, năng suất lao động trong ngành công nghiệp còn thấp so với các nước trong khu vực. Đây cũng là ngành có tốc độ tăng năng suất lao động thấp nhất so với các ngành kinh tế khác. Đó là do đội ngũ lao động có tay nghề thấp, với 28,54% số lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, những lao động có trình độ cao thiếu nhiều.
Việt Nam hiện ở nhóm thấp về các chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia, liên quan đến nguồn nhân lực. Chẳng hạn, về kỹ năng lao động chỉ đạt 46/100 điểm, xếp thứ 103/141 quốc gia có xếp hạng. Đặc biệt, các kỹ năng kỹ thuật, kỹ năng hành vi và kỹ năng mềm của người lao động Việt còn khá yếu. Chất lượng đào tạo đứng thứ 102/141 quốc gia.
Về cơ cấu Việt Nam đang trong giai đoạn “dân số vàng” nhưng về chất lượng thì “không vàng”. Với thực trạng nguồn nhân lực hiện nay, khó cho phép tận dụng tốt cơ hội để hiện thực hóa khát vọng đề ra.
Chất lượng nguồn nhân lực cũng lý giải cho thực trạng năng suất lao động của Việt Nam thấp xa các nước trong khu vực. Năm 2018 năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 37% so với Thái Lan. Để đạt năng suất lao động tương đương Thái Lan hiện nay cần hơn 10 năm nữa mới đuổi kịp. Tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa vào tăng vốn, ít dựa vào gia tăng hiệu quả sử dụng lao động và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Thời kỳ “dân số vàng” đã trôi qua 15 năm, nhưng Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình thấp. Các chuyên gia kinh tế nhận định, giai đoạn từ 2020-2030 là thời gian tối ưu của “dân số vàng”, bởi sau đó sẽ bắt đầu suy giảm dần. Vì vậy, đây là cơ hội cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế của đất nước. Nếu không tạo ra sự “phát triển thần kỳ”, sẽ không bao giờ trở thành một quốc gia thịnh vượng.
Năm 2021, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 3.500 USD. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 7.500 USD, tương đương Malaysia năm 2007 và Thái Lan năm 2019.
Ý kiến từ giới chuyên môn cho rằng, với mức tăng trưởng GDP bình quân 7%/năm, Việt Nam có thể đuổi kịp các nước như Thái Lan hay Malaysia. Còn muốn bắt kịp Trung Quốc, Việt Nam phải tăng trưởng ở mức 10,48%/năm và muốn sánh ngang với Hàn Quốc thì phải đạt tốc độ 11,08%/năm trong 30 năm tới. Nhưng tăng trưởng GDP đang giảm “bền vững”. Giai đoạn 1991-2000, tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,56%/năm; giai đoạn 2001-2010, đạt 7,26%/năm và giai đoạn 2011-2020 đạt 5,95%/năm. Nếu chỉ đuổi kịp Thái Lan thì Việt Nam có nguy cơ mắc “bẫy thu nhập trung bình”.