Đến nay, Việt Nam đã ký kết một số FTA thế hệ mới, bao gồm CPTPP, EVFTA, UKVFTA, VN-EAEU FTA….
Sau một thời gian thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đặc biệt FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Vương quốc Anh (UKVFTA)… đã phát huy hiệu quả tích cực cho nhiều ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA và UKVFTA cùng hàng loạt FTA song phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết trở thành động lực cho các doanh nghiệp, ngành hàng Việt Nam mạnh dạn bước ra thế giới.
Hơn 2 năm kể từ khi Hiệp định EVFTA đi vào thực thi, quan hệ kinh tế-thương mại đã thực sự trở thành điểm sáng trong bức tranh hợp tác song phương Việt Nam-EU với những kết quả đáng ghi nhận, xuất khẩu tăng trưởng ở mức hai con số.
Năm 2021 và những tháng đầu năm 2022, trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam-EU tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng rất mạnh, kể cả so với thời kỳ trước đại dịch. Hiệp định EVFTA đã hỗ trợ tích cực cho hàng hóa Việt Nam và EU tiếp cận thị trường của nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng hóa nguồn cung của cả hai bên.
Theo Bộ Công Thương, năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với thị trường CPTPP đạt 91,4 tỷ USD. Việt Nam xuất khẩu nông sản, máy móc - thiết bị, điện thoại - linh kiện, hàng dệt may, da giày, thủy sản… sang 10 quốc gia thành viên CPTPP với giá trị 46 tỷ USD và nhập khẩu từ thị trường này 45,4 tỷ USD. Trong đó, các thị trường xuất khẩu đạt giá trị lớn gồm: Singapore, Malaysia, Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico, Chile. Ba thị trường còn lại (Peru, Brunei và New Zeland) dù tăng trưởng mạnh, nhưng giá trị tuyệt đối trong giao dịch thương mại còn thấp.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam với các nước thành viên CPTPP đạt 41 tỷ USD, tăng 38,7% so với cùng kỳ năm 2021. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ khu vực này đạt 35 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2021. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), dự báo đến năm 2030, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP sẽ tăng lên 80 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đối với EVFTA, các doanh nghiệp bắt đầu thể hiện tính tích cực hơn và những lợi ích của Hiệp định đem lại rõ rệt hơn. Tỷ lệ sử dụng chứng nhận xuất xứ ưu đãi theo Hiệp định tăng cao. Đáng chú ý, 6 tháng năm 2022, tỷ lệ này đã tăng trên 32% - cao hơn khoảng hơn 4 lần so với tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong CPTPP (5). Trong giao dịch thương mại với EU, riêng năm 2021, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt 63,6 tỷ USD, tăng trưởng 14,8% so với năm 2020.
Cụ thể, tổng giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt 45,8 tỷ USD, tăng 14,2%; còn EU xuất khẩu sang Việt Nam đạt 17,9 tỷ USD, tăng 16,5% so với năm 2020. Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ (C/O mẫu EUR.1) đạt khoảng 7,8 tỷ USD, cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tốt cơ hội từ việc cắt giảm thuế quan của EU theo EVFTA (6). Trong 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt 23,82 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2021 và nhập khẩu đạt 7,88 tỷ USD, giảm 4,7% so với năm 2021 (7).
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, việc tham gia các FTA thế hệ mới cũng đem lại những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam:
Các điều khoản của FTA được đánh giá tạo ra nhiều khó khăn mới cho Việt Nam trong việc xây dựng chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là vấn đề về lao động, bảo vệ môi trường, sở hữu trí tuệ. Do vậy, việc nâng cao sự hiểu biết và kiến thức cơ bản về các khái niệm, quy định điều chỉnh các FTA trong các lĩnh vực liên quan là rất quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách và các doanh nghiệp của Việt Nam, tăng khả năng tiếp cận với hệ thống thương mại toàn cầu.
Bên cạnh đó, sau một thời gian thực thi các FTA thế hệ mới, lợi ích nhận được từ các hiệp định này còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp chưa nắm rõ về những ưu đãi thuế quan theo các hiệp định, cũng như khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng của nước nhập khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ hiểu biết sơ bộ về hiệp định, số lượng doanh nghiệp hiểu biết rõ về các cam kết trong các FTA thế hệ mới liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Chẳng hạn như, trong so sánh với các FTA khác của Việt Nam, tỷ lệ hiểu biết về cam kết CPTPP ở mức tương đối hoặc biết rõ là 25%, chỉ cao hơn mức trung bình (23%) và kém khá xa so với các FTA ASEAN là 31%. Trong đó, nhóm doanh nghiệp biết rõ, tận dụng hiệu quả từ CPTPP là khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (29,7%), doanh nghiệp 100% vốn nhà nước (27,3%). Thực trạng này phản ánh việc tuyên truyền, phổ biến chung về các FTA thế hệ mới còn hạn chế. Với một FTA khó và phức tạp như CPTPP, cần thiết phải có những biện pháp thông tin chuyên sâu, chi tiết và hữu ích hơn cho các doanh nghiệp.
Ngoài ra, bên cạnh việc mở ra nhiều cơ hội phát triển thị trường Việt Nam, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam định hướng hoạt động thương mại và đầu tư với các đối tác thương mại nước ngoài, các FTA thế hệ mới cũng đặt ra các quy định và yêu cầu khắt khe đối với các bên tham gia nhằm nâng cao tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và thúc đẩy các nguyên tắc cơ bản của phát triển bền vững.
Việc tuân thủ các tiêu chuẩn này nhằm bảo đảm nền kinh tế Việt Nam hoạt động hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của chuỗi cung ứng toàn cầu. Do đó, các doanh nghiệp phải đối mặt với những thiệt hại do sức ép cạnh tranh, cũng như chi phí tuân thủ (các khoản chi phí tăng thêm để sẵn sàng cho các cam kết tiêu chuẩn cao về sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường…).
Văn Dương, Thục Anh, Lê Thúy