Tình trạng chênh lệch giới tính có thể khiến nam giới khó tìm bạn đời, dẫn đến kết hôn muộn. Thậm chí, những người đàn ông nghèo, yếu thế có thể phải sống độc thân suốt đời vì không tìm được vợ.
Lời tòa soạn
Theo Tổng cục Dân số, Bộ Y tế, hiện nay, tại Việt Nam, tình trạng mất cân bằng giới tính sau sinh đang ở mức đáng báo động. Tỷ số này ở nước ta là 112,1 trẻ trai trên 100 trẻ gái.
Các nhà khoa học đã dự báo nếu tình trạng này không được giải quyết thì nước ta sẽ “dư thừa” từ 2,3 triệu đến 4,3 triệu nam giới vào năm 2050. Điều này sẽ tác động trực tiếp, sâu sắc vào cơ cấu dân số nước ta và dẫn đến những hệ lụy lâu dài. Trong tương lai, Việt Nam có nguy cơ phải “nhập khẩu cô dâu”.
VietNamNet xin đăng tuyến bài Khát vọng sinh con trai để phản ánh thực tế tình trạng lựa chọn giới tính thai nhi hiện nay.
Hơn 40 năm làm việc trong chuyên ngành sản phụ khoa, Giáo sư Nguyễn Viết Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, từng tiếp xúc rất nhiều người có nhu cầu sinh con trai. "Mong muốn đủ trai, đủ gái cũng là tâm lý bình thường nhưng lại nảy sinh nhiều hệ lụy", ông khẳng định. Dưới đây là biểu đồ thể hiện tỷ số sinh (số lượng bé trai/100 bé gái) ở Việt Nam:
Hệ lụy
Ông Tiến từng chứng kiến nhiều cặp vợ chồng có 2 con gái và khát khao có con trai. Do đó, khi có thai, họ phải xác định đó là con trai hay con gái. Nếu biết đó là con gái, dù thai to, họ vẫn phá bỏ. Điều đó dẫn tới hệ quả về sức khỏe cho người phụ nữ rất lớn thậm chí họ phải trả giá bằng cả tính mạng. May mắn, hiện nay, tình trạng này đã giảm hơn rất nhiều.
Chia sẻ vớiVietNamNet, Giáo sư Nguyễn Đình Cử, Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Dân số, Gia đình và Trẻ em, cho biết mất cân bằng giới tính khi sinh để lại nhiều hậu quả về mặt xã hội, kinh tế và sức khỏe.
Thứ nhất, nguy cơ nam giới khó kết hôn, bình thường hôn nhân ở nước ta thực hiện theo chế độ "một vợ, một chồng" nhưng nam nhiều hơn nữ việc kết hôn không thuận lợi và có thể xảy ra tình trạng bất ổn dưới nhiều hình thức. Nam giới khó tìm được bạn đời nên kết hôn muộn, trong khi đó, nữ giới có thể kết hôn sớm hơn. Thậm chí, nhiều nam giới, nhất là người nghèo, yếu thế không tìm được bạn đời phải sống độc thân khiến cấu trúc gia đình vợ - chồng, cha mẹ - con cái bị phá vỡ.
Nam giới có thể phải ra nước ngoài để kết hôn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy do khan hiếm phụ nữ ở trong nước, nhiều đàn ông Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đã phải "xuất cảnh" tìm vợ. Hôn nhân với người nước ngoài, không dựa trên cơ sở tình yêu, khiến bi kịch đã xảy ra đối với nhiều gia đình và để lại hệ lụy đối với xã hội.
Thứ hai, nguy cơ lan rộng các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, việc thừa nam, thiếu nữ khiến nam giới không thể kết hôn hoặc kết hôn muộn. Vì vậy, tình trạng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân tăng lên, mại dâm khó kiểm soát, du lịch tình dục phát triển, nguy cơ lan rộng các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, trong đó có HIV/AIDS.
Thứ ba, chênh lệch giới tính cũng làm gia tăng nạn lừa đảo, bắt cóc, buôn bán phụ nữ, mại dâm đã xảy ra và có thể sẽ tăng lên. Phụ nữ có thể bị ép buộc sinh thêm con, phá thai nhi gái, bất chấp sức khỏe và tính mạng, bị ngược đãi, phụ tình, ruồng bỏ khi không sinh được con trai. Ngoài ra, điều đó còn tác động vào vấn đề việc làm rất lớn.
Bảng tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam so với một số quốc gia ước tính gần đây nhất, theo Quỹ Dân số Liên hợp Quốc - UNFPA:
Quốc gia
Tỷ số giới tính
Giai đoạn
Nguồn
Albania
108,0
2018
Đăng ký khai sinh
Armenia
111,1
2018
Đăng ký khai sinh
Azerbaijan
114,6
2018
Đăng ký khai sinh
China
111,9
2017
Cục Thống kê Quốc gia
Georgia
107,9
2018
Đăng ký khai sinh
India
111,6
2015-2017
Hệ thống đăng ký chọn mẫu
Kosovo
109,0
2018
Đăng ký khai sinh
Nepal
110,6
2012-2016
Điều tra chọn mẫu về sức khỏe và nhân khẩu học (DHS) 2016
Viet Nam
111,5
2018-2019
Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 2019
Giải pháp
Theo ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng, Tổng Cục dân số, Bộ Y tế, trong những năm qua, ngành dân số trong cả nước đã tham mưu với các cấp có thẩm quyền ban hành chính sách, thực hiện nhiều chương trình, đề án can thiệp nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, tỷ số giới tính khi sinh của nước ta vẫn cao.
Đến nay, câu hỏi lớn thường trực của ngành dân số vẫn là làm thế nào để khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, giảm thiểu tình trạng mất cân bằng và đưa về mức tự nhiên.
Giáo sư Nguyễn Viết Tiến cho rằng để mức cân bằng giới tính khi sinh thấp hơn hiện nay quan trọng nhất vẫn là tuyên truyền để giảm tư tưởng phải có con trai. Các cặp vợ chồng hiện nay không còn phải tuân thủ chặt chẽ các quy định chỉ có 1 đến 2 con nên chúng ta có thể tăng mức sinh. "Con trai, con gái không quan trọng bằng các biện pháp giáo dục con cái trở thành người có ích cho xã hội, có hiếu", ông Tiến chia sẻ.
Theo Giáo sư Nguyễn Đình Cử, để ngăn chặn tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chúng ta cần triển khai một hệ thống giải pháp, vừa cấp bách, vừa lâu dài.
Đầu tiên, cần tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới, phê phán mạnh mẽ những hủ tục biểu hiện trọng nam hơn nữ, nêu gương những phụ nữ, gia đình chỉ có con gái thành đạt, hạnh phúc.
Mặc dù Pháp lệnh Dân số năm 2003 đã nghiêm cấm nhưng tỷ lệ phụ nữ mang thai biết giới tính thai nhi vẫn cao, mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn không giảm, chứng tỏ còn sự hỗ trợ của nhân viên y tế. Vì vậy, ông Cử cho rằng cần đẩy mạnh truyền thông không chỉ cho người dân mà cả cán bộ y tế. Chúng ta cần tăng cường giám sát việc thực thi pháp luật liên quan đến giới tính thai nhi, xử phạt nghiêm khắc những người vi phạm.
Ngoài ra, đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, đô thị hóa; sớm đưa nước ta vượt qua ngưỡng “thu nhập trung bình”, xây dựng và phát triển hệ thống an sinh xã hội vững chắc sẽ là giải pháp cơ bản lâu dài nhằm xóa bỏ triệt để sự bất bình đẳng giới nói chung và mất cân bằng giới tính khi sinh nói riêng.
Một giải pháp khác cần thực hiện đó là đăng ký dân số không đầy đủ, thống kê không chính xác cũng ảnh hưởng đến việc tính toán chênh lệch giới tính. Chẳng hạn, do tâm lý “ưa thích con trai” nên nếu sinh được con trai, cha mẹ có thể "sốt sắng" đi khai sinh ngay, nhưng nếu sinh con gái, cha mẹ lại trì hoãn làm việc này. Mặt khác, để đảm bảo độ tin cậy, việc tính toán, xác định, công bố “tỷ số giới tính khi sinh” chỉ nên được tiến hành với số ca sinh đủ lớn, ít ra là số ca sinh của một tỉnh, một năm.