Việt Nam là đối tác đứng thứ 11 về hàng hóa nhập khẩu vào EU, chiếm tỉ trọng 1,8% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của EU. Ba quốc gia EU nhập khẩu nhiều nhất từ Việt Nam là Hà Lan (7, 849 tỉ euro), Đức (7,68 tỉ euro) và Italia (3,519 tỉ euro).
Trong xu thế ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng đến mục tiêu tham vọng trở thành lục địa trung hòa khí hậu vào năm 2050 (zero carbon), EU đã đưa ra nhiều cơ chế, trong đó phải kể đến cơ chế “Điều chỉnh biên giới carbon” (CBAM) nhằm giảm tình trạng rò rỉ carbon (là tình trạng DN trong EU tìm cách chuyển hoạt động sản xuất phát thải nhiều carbon ra nước ngoài để tranh thủ các tiêu chuẩn còn lỏng lẻo ở những nơi đó). Thông qua CBAM, EU kỳ vọng sẽ ngăn chặn được nguy cơ rò rỉ carbon thông qua cân bằng giá carbon giữa sản phẩm nội địa và nhập khẩu.
Đây là thông tin ông Rasmus Nedergaard,chuyên gia về năng lượng tái tạo của tổ chức Act Renewable có trụ sở tại CHLB Đức công bố, tại Hội thảo "Tổng quan về yêu cầu giảm khí nhà kính và cơ chế carbon – Thách thức và giải pháp ban đầu cho doanh nghiệp” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 28/6/2022.
Theo đó, CBAM sẽ áp một loại thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu vào EU. Mức thuế phụ thuộc vào hàm lượng phát thải trong sản xuất cũng như chênh lệch giữa giá carbon theo ETS (Hệ thống thương mại khí thải) của EU và giá tại nước sản xuất.
Hàng hóa sau CBAM khi vào thị trường EU sẽ trở nên đắt đỏ hơn, trừ khi DN thực hiện cắt giảm phát thải khí nhà kính (carbon). Hiện tại CBAM đang áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu thuộc các ngành: điện, sắt thép, phân bón, nhôm và xi măng. Các DN có thời gian quá độ là 2 năm (từ 1/1/2023 đến 31/12/2024) để kiểm kê khí nhà kính cũng như việc phát thải của các đơn vị thuộc chuỗi cung ứng. Phạm vi các ngành sản xuất bị điều chỉnh bởi cơ chế CBAM, sẽ tiếp tục được mở rộng trong tương lai. Vì thế, CBAM sẽ tác động rất lớn đến các DN xuất khẩu của Việt Nam sang EU thời gian tới. Cơ chế này có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nhiều DN xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU.
Ông Shailesh Telang và bà Thanh Mai, các chuyên gia về giảm phát thải cho biết, các DN xuất khẩu sang thị trường EU cần nghiên cứu cơ chế này, đồng thời nhận thức rõ giảm phát thải khí nhà kính là xu thế tất yếu của thế giới, không thể đảo ngược. Các thị trường khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản, hay Hàn Quốc … cũng đã và đang xây dựng các cơ chế tương tự để thực hiện các cam kết cắt giảm phát thải khí nhà kính, cân bằng giá carbon giữa sản phẩm nội địa và sản phẩm nhập khẩu. Vấn đề chỉ là thời điểm nào.
Bà Nguyễn Thị Hiền Trang, chuyên gia về giảm phát thải của Act Renewable cho rằng, nhiều DN Việt Nam hiện vẫn chưa quan tâm đến vấn đề này, nhất là các DN nhỏ và vừa. Trong khi đó, Việt Nam cũng đã đưa ra mục tiêu cắt giảm phát thải khí nhà kính ngày càng tham vọng. Luật Môi trường sửa đổi năm 2020 đã có điều 91 về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, điều 139 quy định về tổ chức và phát triển thị trường carbon. Mới đây, Nghị định 06/2022/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 7/1/2022 quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon. Tất cả cho thấy Chính phủ đã có lộ trình và phương thức giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Trước mắt, đã có danh mục gần 2.000 DN phải thực hiện thí điểm việc báo cáo phát thải khí nhà kính vào năm 2025. Những năm tiếp theo, thị trường carbon được hình thành, phát triển sẽ tác động sâu rộng đến nhiều mặt đời sống kinh tế của đất nước. Các DN, nhất là những DN sản xuất có cường độ phát thải lớn phải chuyển mình.
Trần Thủy