Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã ký Nghị định số 104/2022/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi giao dịch hành chính, cung cấp dịch vụ công, có hiệu lực từ 1/1/2023.
Nghị định số 104 bỏ quy định về việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công, chủ yếu thuộc nhiều lĩnh vực như: việc làm, bảo hiểm y tế, giáo dục, y tế, đất đai, thuế, nhà ở, nhà ở xã hội, điện lực, nuôi con nuôi… Thay vào đó, khi thực hiện các thủ tục trên, người dân chỉ cần xuất trình một trong các loại giấy tờ: Thẻ căn cước công dân, chứng minh nhân dân, giấy xác nhận thông tin về cư trú, giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Nghị định gồm 14 điều để sửa đổi các Nghị định có quy định về việc liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ hành chính công, trong đó bỏ các quy định yêu cầu công dân phải nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú.
Theo đó, cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công phải khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.
Sửa đổi nhiều Nghị định
Nghị định lần này bỏ quy định về việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy trong các thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công ở nhiều lĩnh vực như: Việc làm, bảo hiểm y tế, giáo dục, y tế, đất đai, thuế, nhà ở, nhà ở xã hội, điện lực, nuôi con nuôi...
Đối với Nghị định liên quan đến Luật Đất đai, Nghị định 104 sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 2 Điều 21 Nghị định số 43. Cụ thể: Thẻ CCCD hoặc CMND hoặc giấy khai sinh; giấy tờ nộp tiền điện, nước và các khoản nộp khác có ghi địa chỉ nhà ở tại thửa đất đăng ký. Trường hợp không khai thác được thông tin về cư trú trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì bổ sung giấy xác nhận thông tin về cư trú.
Đối với Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, quy định mới đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế cụm từ liên quan đến "sổ hộ khẩu".
Cụ thể, thay thế một số cụm từ tại điểm b khoản 2 Điều 28 Nghị định số 61 quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm. Thay thế cụm từ “bản sao chứng minh nhân dân hoặc sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú” và cụm từ “bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú” bằng cụm từ “bản sao chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân hoặc giấy khai sinh”.
Đối với Luật Bảo hiểm y tế, Nghị định đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều và biểu mẫu của Nghị định số 146. Cụ thể, bãi bỏ cụm từ “Số sổ hộ khẩu (hoặc sổ tạm trú)” tại mẫu số 03.
Về việc nhận kết quả là tiền giải quyết chế độ bảo hiểm y tế, viên chức bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả hướng dẫn như sau: Người hưởng chế độ trực tiếp nhận cần cung cấp giấy hẹn và thẻ CCCD hoặc CNMD. Dự thảo cũng đề cập sửa đổi liên quan đến trường hợp nhận thay hoặc người giám hộ...
Đối với Luật Nhà ở, sẽ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 99. Nổi bật, trong đó sau sửa đổi, Nghị định này sẽ bỏ yêu cầu "chứng thực sổ hộ khẩu".
Cụ thể, sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 60 như sau: Bản sao thẻ Căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu đang còn giá trị hoặc Thẻ quân nhân của người có đơn đề nghị thuê nhà ở; trường hợp là vợ chồng thì phải có thêm bản sao giấy đăng ký kết hôn.
Thay tế cụm từ "sổ hộ khẩu"
Nghị định 104 còn đề cập đến việc bãi bỏ, thay thế nhiều cụm từ liên quan đến "Sổ hộ khẩu".
Cụ thể, bãi bỏ cụm từ “Sổ hộ khẩu” tại điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị định số 150 sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh và thủ tục hành chính trong lĩnh vực thông tin và truyền thông.
Bãi bỏ cụm từ “trong giai đoạn chuyển tiếp, người yêu cầu đăng ký hộ tịch phải xuất trình giấy tờ chứng minh nơi cư trú” tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 123 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.
Bãi bỏ cụm từ “số sổ hộ khẩu (đối với thành viên là hộ gia đình)” và cụm từ “sổ hộ khẩu (đối với thành viên là hộ gia đình)” tại khoản 3 Điều 15 Nghị định số 45 về thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Bãi bỏ cụm từ "sổ hộ khẩu..." tại Nghị định 131 hướng dẫn Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng.
Thay thế cụm từ “Sổ hộ khẩu của đối tượng hoặc văn bản xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn” tại Nghị định số 20 quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội thành “Giấy xác nhận thông tin về cư trú hoặc Giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư”.
Khi chính thức có hiệu lực, các thủ tục hành chính, dịch vụ công có yêu cầu nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy được thay thế bằng việc khai thác, sử dụng thông tin về cư trú theo quy định.