Vượt qua lực cản, cạnh tranh với sản phẩm “ngoại”
Kể về cái duyên khiến mình gắn bó với lĩnh vực chuyển đổi số cảng biển, ông Tạ Minh Vang, Giám đốc Công ty Giải pháp công nghệ CEH quay ngược dòng thời gian về thời điểm năm 2009, khi ông còn tham gia điều hành Diễn đàn bảo mật CEH.vn: “Nhóm chúng tôi có cơ hội tiếp cận một phần mềm điều hành quản lý cảng (terminal operation system – TOS) có giá hàng triệu đô-la, đã triển khai tại nhiều cảng biển trên khắp thế giới. Ban đầu chỉ đơn thuần là sự tò mò vì giá trị bản quyền quá lớn, sau một quá trình tìm hiểu kỹ hơn thì bắt đầu xuất hiện câu hỏi: Tại sao dân công nghệ Việt Nam mình không làm được?”.
Xuất phát điểm là dân công nghệ thông tin, chưa hiểu biết nhiều về hoạt động nghiệp vụ khai thác cảng biển, năm 2015, ông Vang cùng một số anh em xin vào làm nhân viên IT tại một cảng biển mới ở Thành phố Hồ Chí Minh để tích lũy dần kiến thức, kinh nghiệm thực tế.
Với sự hỗ trợ nhiệt tình từ các anh chị em làm việc tại cảng, ông Vang cùng các cộng sự có khá nhiều điều kiện thuận lợi để nghiên cứu chuyên sâu về giải pháp TOS, và tiếp đó là các tính năng mở rộng hỗ trợ khai thác cảng, ứng dụng công nghệ cao vào tự động hóa giám sát quản lý như trí tuệ nhân tạo (AI), nhận dạng ký tự quang học (OCR), phát triển nền tảng giao dịch trực tuyến… Mọi việc cứ tiếp diễn từng ngày trong mối quan hệ gắn bó một cách tự nhiên của những người “cùng hội cùng thuyền”.
Suốt một thời gian dài, tại Việt Nam, logitics bị coi là một trong những lĩnh vực “đi chậm” nhất trên hành trình chuyển đổi số vì có rất nhiều lực cản. Với ngành cảng biển, những lực cản lớn nhất chính là các cấp quản lý ngại thay đổi, luôn lo lắng một cách mơ hồ về những rủi ro khi vận hành hệ thống, trong khi đơn vị/tổ chức không đủ nhân sự có kỹ năng cần thiết về công nghệ.
Hầu hết các cảng biển ở Việt Nam mua sản phẩm/giải pháp của nước ngoài như Catos (Hàn Quốc), Navis (Mỹ), TOPS (Úc)… với chi phí cao, quy trình nâng cấp, bảo trì, vận hành phức tạp, đòi hỏi nhiều nhân lực công nghệ cao, lại khó tích hợp, chia sẻ dữ liệu. Đôi khi hoạt động đầu tư không mang lại hiệu quả tốt như mong muốn. Thậm chí có những đơn vị phải quay lại quy trình giấy tờ thủ công truyền thống khi hệ thống giải pháp công nghệ bị trục trặc.
Với tầm nhìn “Khẳng định trí tuệ Việt Nam, đưa công nghệ vào hoạt động khai thác, nâng tầm thương hiệu cảng”, đội ngũ CEH nhanh chóng bắt tay vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) với kỳ vọng sẽ tạo ra được một sản phẩm lớn có thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài.
Giám đốc CEH may mắn có những người bạn, anh chị trong ngành logistics, ngân hàng… sẵn sàng hỗ trợ nhiệt tình về kiến thức, thời gian, thậm chí cả kinh phí. Đôi khi cũng có khó khăn về tài chính, nhân sự, nhưng rồi mỗi anh em hy sinh một chút, và đã cùng nhau vượt qua.
“Thách thức lớn xuất hiện khi ra đời phiên bản đầu tiên của Giải pháp chuyên biệt về khai thác cảng VTOS. Với vốn liếng kiến thức kinh doanh ít ỏi, chúng tôi mày mò làm tài liệu, giới thiệu sản phẩm, và liên hệ vài nơi để chào hàng. Đáp lại là lời từ chối thẳng thừng từ các doanh nghiệp cảng biển, vì trong mắt họ, dù giá rất rẻ, nhưng với kinh nghiệm bằng 0, VTOS tiềm ẩn quá nhiều rủi ro khi áp dụng cho hoạt động khai thác, điều hành cảng. Gần 1 năm ngược xuôi chào hàng, tài chính cũng cạn, vài người vì mưu sinh phải đi tìm công việc mới. Còn lại 4 anh em, ngồi cà phê góc đường, chúng tôi nhìn nhau phân vân: Rồi làm sao bán, bán cho ai? Có nên tiếp tục hay không?”, ông Vang trầm ngâm hồi tưởng.
“Khách hàng đầu tiên là một điều bất ngờ lớn của CEH”, ông Vang kể tiếp: “Hồi ấy, Hệ thống TOS của Cảng Container quốc tế SP-ITC (ở Thành phố Hồ Chí Minh) thường phải ngưng hoạt động khi đón 2 tàu hoặc lúc các phương tiện, thiết bị vận hành tối đa. Thực tế này không đáp ứng các tiêu chí của hãng tàu quốc tế cũng như quy trình tích hợp Hải quan điện tử của Tổng cục Hải quan. Nhận thấy đây là cơ hội cho VTOS, chúng tôi liên hệ Ban Giám đốc Cảng xin được thuyết trình và triển khai thử nghiệm. Trên cơ sở kết quả đạt được, tháng 9/2019, Container quốc tế SP-ITC đã chính thức vận hành VTOS”.
Sau khoảng 4 năm, tới giờ, sản phẩm VTOS với thiết kế theo tiêu chuẩn quốc tế đã vươn lên dẫn đầu thị trường trong nước, dần thay thế các TOS do nước ngoài cung cấp, chung tay giải “bài toán” khó về chuyển đổi số cảng biển của quốc gia.
Ứng dụng những công nghệ mới nhất cho sản phẩm “Make in Vietnam”
Theo Giám đốc Tạ Minh Vang, ngay từ những ngày đầu tiên, CEH đã kiên định theo hướng sản phẩm “Make in Vietnam”, dù từng bị khách hàng phũ phàng từ chối chỉ vì họ thích hàng “ngoại” hơn hàng Việt.
“Sẵn sàng bỏ qua không ít cơ hội mở doanh nghiệp tại Mỹ, chúng tôi luôn có niềm tin về trí tuệ Việt, về một ngày mai công nghệ Việt khẳng định thương hiệu, lá cờ Tổ quốc sẽ hiện diện khắp nơi trên thế giới”, ông Vang nhấn mạnh.
Dám nghĩ, dám làm với trí tuệ và khát vọng lớn, CEH đầu tư khá mạnh cho hoạt động R&D, trong đó tập trung vào nguồn nhân lực R&D; thiện chí lắng nghe yêu cầu từ người dùng, phát triển những sản phẩm phù hợp với con người và văn hóa Việt.
Các sản phẩm, giải pháp “Make in Vietnam” của CEH đều liên tục được nghiên cứu, phát triển và ứng dụng những công nghệ mới nhất.
CEH là đơn vị tiên phong ứng dụng AI vào tự động hóa xác thực giao nhận cảng. Sau khi hệ thống OCR nhận diện số xe, số rơ-mooc, số niêm chì hải quan, căn cước công dân, giấy phép lái xe, đăng kiểm, giấy đăng ký xe, rồi đối chiếu lệnh giao hàng điện tử (EDO), lệnh nâng hạ, thông tin hàng hóa, tích hợp dữ liệu thông quan hải quan, thì hệ thống ứng dụng AI sẽ ra quyết định cho hàng hóa ra/vào cảng.
Các giải pháp như Kho CFS, Bãi container, Giám sát Salan, Sửa chữa container rỗng, EDI System... đều dùng IoT để quản lý và tối ưu hoạt động khai thác. Dữ liệu được tích hợp trên nền tảng điện toán đám mây (cloud) theo kiến trúc dữ liệu lớn (big data).
Quá trình nghiên cứu và triển khai công nghệ mới của CEH có nhiều thuận lợi khi nhận được sự ủng hộ từ các đối tác như Gemadept, Bộ Thông tin và Truyền thông, Tổng cục Hải quan... Các kỹ sư trẻ của Việt Nam nắm rất vững công nghệ, thành thạo trong quá trình huấn luyện (training), tích hợp AI vào phần mềm một cách nhanh chóng.
Hiện danh mục sản phẩm chủ lực của CEH khá đa dạng, với: Phần mềm điều hành quản lý khai thác cảng VTOS; Phần mềm hải quan điện tử CAS; Phần mềm quản lý kho CFS, kho ngoại quan; Phần mềm quản lý tài sản và phương tiện cảng; Ứng dụng trực tuyến Eport/Smartport; Ứng dụng gọi xe (tương tự mô hình Grab, Uber)…
Sản phẩm, giải pháp “Make in Vietnam” của CEH được đánh giá cao bởi loạt ưu thế nổi trội: Phát triển dựa theo yêu cầu và vận hành thực tế, trên nền tảng công nghệ mới, hiện đại; Dễ sử dụng, thân thiện với người dùng; Đội ngũ nhân sự hiểu nghiệp vụ chuyên sâu; Thời gian triển khai trong vòng 2 - 5 tuần (nhanh hơn rất nhiều so với mức trung bình 16 - 18 tháng của sản phẩm nước ngoài); Khả năng nâng cấp, tùy biến cao, có chuẩn API để dễ dàng tích hợp và mở rộng với ứng dụng thứ ba; Chi phí triển khai chỉ bằng 10 - 20% sản phẩm nước ngoài…
Dù có nhiều ưu điểm nổi trội như thế, song cũng như nhiều doanh nghiệp công nghệ Việt khác, CEH vẫn phải đối mặt với sự thiếu lòng tin của người Việt vào sản phẩm, giải pháp Việt.
“Niềm tin vào sản phẩm “Make in Vietnam” có lẽ là lực cản lớn nhất trong quá trình đàm phán với các khách hàng của chúng tôi. Có thể bởi vì trong quá khứ, nhắc tới các sản phẩm cơ khí, điện máy, điện tử… thì thương hiệu của các doanh nghiệp từ các nước phát triển đã được mặc định tồn tại trong tâm trí của nhiều người dùng Việt. Tận dụng cơ hội khách hàng đầu tiên, CEH đã triển khai chuyên nghiệp, tích cực nâng cấp tính năng mới, góp phần nâng cao năng suất và giá trị cho cảng. Qua đó dần tạo lòng tin của các doanh nghiệp cảng biển trong nước”, ông Vang cho biết.
Thúc đẩy phát triển kinh tế số
Tới nay, đã có 23 cảng biển, ICD (cảng cạn), kho hàng (depot) sử dụng giải pháp của CEH, thu được nhiều kết quả khả quan.
Điển hình như tại Cảng Container quốc tế SP-ITC, các giải pháp “Make in Vietnam” của CEH đã chuyển đổi số 100% tác nghiệp khai thác vận hành, giảm 70 - 90% nhân sự làm về kế toán, chứng từ, báo cáo, thống kê. Thời gian giao nhận hàng hóa qua cổng từ 10 phút giảm xuống chỉ còn vỏn vẹn 1 phút. Cùng với đó, các tính năng khác như tối ưu hoạt động khai thác bãi, tàu; trao đổi dữ liệu tự động EDI, EDO với các hãng tàu… đã giúp tăng sản lượng từ 60.000 Teus/năm trong năm 2018 lên 800.000 Teus/năm vào năm 2022. Tháng 7/2023, ấn tượng với những thay đổi lớn về công nghệ của Cảng Container quốc tế SP-ITC, hãng tàu MSC đã quay lại sử dụng dịch vụ tại cảng này.
Một trường hợp điển hình nữa là nền tảng Smartport sử dụng tại 11 cảng thuộc Tập đoàn Gemadept. Các tương tác trực tuyến như: Truy vấn thông tin hàng hóa, vận đơn, lịch tàu, làm lệnh nâng hạ, thanh lý hải quan và nhận chứng từ điện tử có giá trị pháp lý... đã giúp quy trình hoạt động trước kia phải trải qua 10 - 12 điểm chạm và nhiều lần di chuyển, giờ chỉ cần 2 - 3 phút để hoàn thành tác nghiệp trực tuyến, mang lại trải nghiệm tích cực cho khách hàng.
Hoặc các ứng dụng Gọi xe container, salan, Dùng lại container (Container Re-use), Cược sửa chữa trực tuyến… giúp chủ hàng giảm đến 50% chi phí vận tải, góp phần phát triển kinh tế số Việt Nam.
Đặc biệt, Hệ sinh thái Cảng biển số VSL của CEH kết nối các thành phần trong ngành logistics, hoạt động 24/7, đã giúp các cảng biển Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và nâng tầm quốc tế.
VSL tạo nên một trung tâm điều hành trung gian, xử lý các dịch vụ logistics trực tuyến theo thời gian thực, vận hành trên nền tảng cloud, xác thực định danh từng đối tượng tham gia, phát hành chứng từ điện tử có giá trị pháp lý, tích hợp dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, vận tải theo mô hình kinh tế chia sẻ. VSL hoạt động dựa trên kho dữ liệu lớn, chia sẻ dữ liệu có chọn lọc với các cơ quan quản lý nhà nước. Các đối tượng thành phần trong hệ sinh thái này gồm: Cảng biển/cảng cạn/kho hàng; hãng tàu; công ty vận tải bộ/vận tải thủy; cơ quan quản lý nhà nước (hải quan, cảng vụ, biên phòng…); ngân hàng; hãng bảo hiểm.
“Năng lực đón tàu tối đa của từng cảng là khác nhau. Khi một “siêu” tàu mẹ container đến, chỉ một số cảng có thể đáp ứng được việc đón tàu. Thông thường, tại một thời điểm chỉ có thể đón được 1 tàu (các tàu khác phải xếp hàng). Điều này dẫn đến quá tải cho một số cảng lớn, trong khi các cảng khác có thể không hoạt động hết công suất, gây lãng phí nguồn lực. Mặc dù có lợi thể tự nhiên về luồng lạch, có thể đón “siêu” tàu, nhưng với cách tổ chức như hiện nay, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn chưa khai phóng được tiềm năng của khu vực cảng Cái Mép Thị Vải để trở thành cảng biển mang tầm vóc của khu vực và quốc tế. Nếu sử dụng VSL sẽ rút ngắn thời gian xử lý 1 tàu bằng cách thay vì 1 cảng xử lý thông quan thì huy động nguồn lực của các cảng khác để thực hiện xử lý song song. VSL có thể tích hợp cụm cảng, phương tiện vận chuyển để trở thành một “siêu” cảng. Khi đó có thể khai thác, tối ưu hóa nguồn lực của các cảng khác trong cụm cảng, và có thể cạnh tranh với với cảng trung chuyển trong khu vực”, ông Vang phân tích một cách đầy tâm đắc về “át chủ bài” của CEH.
Ngày 10/10/2022, VSL được vinh danh sản phẩm chuyển đổi số xuất sắc, sau đó, nhanh chóng có tên trong danh sách các nền tảng số quốc gia.
“Buổi tối hôm đó, nhận tin VSL được Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông vinh danh, anh em chúng tôi vui không ngủ. Hạnh phúc vô cùng. Đâu đó có những giọt nước mắt lặng lẽ rơi trên khuôn mặt nhuốm gió sương sau gần 10 năm lăn lộn ở cảng biển”, Giám đốc CEH bồi hồi xúc động.
Chuẩn bị hành trang ra biển lớn
Khoảng 10 năm nay, Giám đốc Tạ Minh Vang luôn mơ về một ngày sản phẩm “Make in Vietnam” của CEH sẽ bước ra thị trường khu vực và vươn tầm thế giới.
Năm 2023, CEH đã có những bước đầu tiên trên hành trình “ra biển lớn”: Tiếp cận hai hãng tàu lớn nhất thế giới là Maersk Line và MSC.
Doanh nghiệp công nghệ số Việt đang nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu triển khai VTOS, VSL tại khu vực Đông Nam Á, trước hết ở các nước có mô hình khai thác gần giống với Việt Nam như: Thái Lan, Indonesia, Campuchia.
“Kế hoạch đến năm 2025, CEH sẽ xuất khẩu phần mềm triển khai cho cảng đầu tiên trong khu vực. Và dự kiến đến năm 2030, giải pháp VTOS sẽ có mặt ở thị trường Châu Âu”, ông Vang hé lộ một số điểm nhấn trên chặng đường phía trước.
Xác định hành trình vươn ra “biển lớn” sẽ có nhiều “con sóng dữ”, CEH đã và đang chuẩn bị “hành trang” để sẵn sàng “vượt sóng ra khơi”.
Cùng với việc liên tục cải tiến, nâng cấp sản phẩm để đi trước các đối thủ cạnh tranh, công ty còn triển khai nhiều hoạt động tìm kiếm, bồi dưỡng đội ngũ kỹ sư trẻ, giỏi chuyên môn và ngoại ngữ. Đáng chú ý là đưa vào hoạt động Trung tâm Đào tạo nhân lực vận hành khai thác cảng và triển khai đào tạo thực chiến cho sinh viên ra trường có mong muốn làm việc trong ngành logistics.
“Khi triển khai giải pháp công nghệ số cho các doanh nghiệp kho bãi/cảng, chúng tôi nhận thấy nhu cầu lớn về nhân lực số để vận hành hiệu quả các ứng dụng, giúp doanh nghiệp giảm áp lực trong quá trình thay đổi, giảm thiểu rủi ro và chi phí. Thông qua các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, CEH muốn lan tỏa cảm hứng sáng tạo công nghệ đến với thế hệ tiếp nối, khuyến khích các bạn trẻ tự tin, dám ước mơ, dám thực hiện ước mơ, xây dựng đất nước hùng cường”, ông Vang chia sẻ.
Một nguồn động lực lớn đối với CEH đó là doanh nghiệp Việt không đơn độc khi ra thị trường quốc tế.
Ông Vang vui vẻ kể: “Mỗi bước đường chúng tôi đi luôn có sự hướng dẫn, đồng hành của Bộ Thông tin và Truyền thông. Đặc biệt, trong khuôn khổ Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu diễn ra hồi trung tuần tháng 9/2023, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã tạo điều kiện để CEH giới thiệu sản phẩm của mình trước gần 500 nghị sĩ trên toàn thế giới. Hiện nhiều doanh nhân Việt ở nước ngoài sẵn sàng hỗ trợ CEH kinh doanh, tiếp cận doanh nghiệp cảng biển lớn”.
Khi được hỏi về những đề xuất, kiến nghị cụ thể để sản phẩm Việt, trí tuệ Việt ghi thêm nhiều dấu ấn đẹp trên bản đồ công nghệ thế giới, ông Vang bày tỏ: “Là một doanh nghiệp còn trẻ và quy mô nhỏ, CEH mong muốn được hợp tác, tích hợp, chia sẻ dữ liệu có chọn lọc với các công ty công nghệ như FPT, Viettel, VNPT, Nexttech, CMC, VNG…, qua đó tận dụng nguồn lực để phát triển ứng dụng công nghệ cao cho ngành logistics. Chúng tôi rất mong Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công thương, Bộ Quốc phòng khuyến khích các doanh nghiệp trực thuộc dùng sản phẩm nội địa thay vì sản phẩm nước ngoài. Ngoài ra, chúng tôi cũng mong các trường đại học đào tạo về logistics, công nghệ thông tin tạo điều kiện để CEH chia sẻ tài liệu, sản phẩm công nghệ, kỹ năng, giúp sinh viên có điều kiện tiếp xúc kiến thức thực tế, đồng thời khơi dậy sự sáng tạo từ năng lượng tuổi trẻ. Từ đó, sẽ có nhiều sản phẩm “Make in Vietnam” ra đời, đi con đường Việt Nam, xây dựng đất nước hùng cường và vươn tầm thế giới”.
“Câu nói “Khi bạn muốn đóng một con tàu, đừng bắt đầu bằng việc đi tìm gỗ, cưa, những tấm ván và phân công nhiệm vụ, mà hãy định hướng bằng trái tim của con người khao khát biển cả mênh mông và vô tận” như một phần của cuộc đời tôi và tinh thần CEH. Chúng tôi bắt đầu một việc nhỏ bằng khát khao lớn, vượt qua thử thách với sự dũng cảm đơn sơ, luôn tin tưởng phía trước sẽ có con đường, gian nan không lùi bước, không vì lợi ích nhỏ, tư tưởng cá nhân mà lu mờ khát vọng, ước mơ nâng tầm, đưa công nghệ Việt ra “biển lớn””, Giám đốc Tạ Minh Vang trải lòng trước khi dừng câu chuyện.
Tại buổi làm việc giữa Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với lãnh đạo huyện Cần Giờ hồi trung tuần tháng 7/2023, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã báo cáo Thủ tướng về việc Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các bộ, ngành liên quan đang thúc đẩy Nền tảng cảng biển số do doanh nghiệp Việt Nam xây dựng và đang triển khai tốt tại nhiều cảng trong nước với giá cả cạnh tranh chỉ bằng 20% giá của nền tảng nước ngoài trong khi vẫn bảo đảm đầy đủ các tính năng tương tự. Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì đánh giá, bảo đảm các tiêu chí kỹ thuật để các cảng trong nước triển khai nhân rộng Nền tảng cảng biển số này. |