Chính vì thế, lãi suất bình quân cho vay đối với các khoản vay ngắn hạn là 5,5-5,7%, vay trung ngắn hạn là 5,8-10%. Lãi suất của những khoản dư nợ trước đây chưa đến kỳ trả nợ và trả lãi thì có độ trễ, do huy động của các ngân hàng thương mại trước đây ở mức rất cao, thậm chí từ 10-12%, nên độ trễ hiện nay theo sự tính toán của ngân hàng xác định khoảng từ 9-12%.
Hiện nay, tín dụng có tăng nhưng mức tăng so với năm ngoái vẫn còn thấp. Tính đến ngày 30/9, lãi suất huy động là khoảng 5,9%, tổng vốn huy động của các ngân hàng thương mại là 12.900 nghìn tỷ đồng. Vào thời điểm năm ngoái, lãi suất huy động là 7,68%. Lãi suất cho vay dự đoán là khoảng 6,1-6,2%. Tổng dư nợ của nền kinh tế là 12.630 nghìn tỷ đồng. Điều này cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng có tăng nhưng chậm hơn năm ngoái. Nguyên nhân do nhiều lý do khách quan, trong đó có khó khăn đến từ nền kinh tế, tác động của nước ngoài và khó khăn của doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại khi chưa đến kỳ các doanh nghiệp trả lãi, ngân hàng và doanh nghiệp đều có sự thống nhất hỗ trợ trong giai đoạn khó khăn. Khối tín dụng chính sách cho người nghèo, hộ thu nhập thấp cũng tăng rất cao là 8,19% và tổng dư nợ là 316 nghìn tỷ đồng với 16,7 triệu khách hàng.
Liên quan đến vấn đề làm thế nào để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với tín dụng, ông Tú cho biết, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN xác định là đẩy mạnh việc tăng nguồn lực hỗ trợ cho doanh nghiệp khó khăn, doanh nghiệp đóng cửa, doanh nghiệp giải thể để giúp họ sớm khôi phục kinh tế, nhất là sau 2 năm chống dịch cộng với tác động kép từ ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới và trong nước.
Trước tình hình này, từ đầu năm, NHNN đã đặt ra vấn đề mở rộng tín dụng thông qua 11 giải pháp lớn trong đó có một số giải pháp quan trọng.
Giải pháp thứ nhất là ngay từ đầu năm, các ngân hàng đã tạo thanh khoản, dư địa cho tổ chức tín dụng. Không có câu chuyện thiếu room tín dụng cũng như các ngân hàng thương mại rất thoải mái nguồn lực cho vay. Thứ hai, hạ lãi suất điều hành 2% cho 4 lần từ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước. Thứ ba, rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật tạo dư địa pháp lý cho các tổ chức tín dụng cung ứng sản phẩm mới, tạo thêm cạnh tranh, điều kiện cho vay nhiều hơn.
Tiếp đó, tái cơ cấu lại các khoản nợ, khoản lãi đến hạn nếu còn khó khăn. Cụ thể, với Thông tư 42 ngay từ đầu năm, đến nay có hơn 120 nghìn tỷ đồng đã được thực hiện. Giải pháp thứ năm, gói tín dụng chuyên đề của Chính phủ cũng như của ngân hàng như gói 40 nghìn tỷ đồng của ngân sách để hỗ trợ 2% lãi suất, gói 120 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ nhà ở xã hội, gói 15 nghìn tỷ đồng cho kinh doanh thủy sản cũng như xuất khẩu gỗ.
Giải pháp thứ sáu là cải cách thủ tục hành chính, hạ phí để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; tổ chức hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, các thành phần kinh tế để tháo gỡ vướng mắc ngay tại cơ sở.
Các giải pháp tiếp theo là truyền thông; phối hợp với chính quyền địa phương, các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp… để cùng chính quyền địa phương xác định tại địa phương mình có những cơ chế, chính sách gì còn vướng mắc để cùng tháo gỡ. Cuối cùng là hỗ trợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Đây là nỗ lực lớn trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao để tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân. Việc liên tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và Chính phủ. Qua đó, tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường, tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đến nay, mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm (lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các ngân hàng thương mại giảm khoảng hơn 1,0%/năm so với cuối năm 2022). Với tác động có độ trễ của chính sách sau những lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.