Chuyển dịch năng lượng là xu hướng tất yếu
Nhiều nghiên cứu cho thấy, xu hướng phát triển năng lượng của thế giới sẽ đi theo hướng dần thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch (than, dầu mỏ) bằng các nguồn năng lượng xanh và sạch hơn (gió, mặt trời, sinh khối, hydro xanh, methanol... ). Tương ứng với tỷ trọng nhiên liệu hóa thạch trong cơ cấu năng lượng sơ cấp sẽ giảm từ mức 81% năm 2018 về mức 54% năm 2050.
Trên thế giới, các tập đoàn dầu khí cũng có sự thay đổi về chiến lược đầu tư, thu hẹp hoạt động đầu tư dầu khí và tăng đầu tư vào công nghệ sạch. Trong đó, đầu tư lớn nhất vào ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi, tỷ trọng thu hồi và lưu trữ carbon cũng dần tăng nhanh.
Tính đến tháng 6/2022, có khoảng 40 quốc gia đưa ra các chiến lược, lộ trình về hydrogen trong đó các nước đứng đầu về phát thải nhà kính như: Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nga, Nhật. Hiện 98% hydrogen trên thế giới được sản xuất từ khí đốt và than, ứng dụng trong lọc dầu và hóa chất.
Tại Việt Nam, để bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020 về “Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Nghị quyết xác định mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045. Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ thực hiện nghiên cứu công nghệ, xây dựng một số đề án thử nghiệm sản xuất, khuyến khích sử dụng năng lượng hydro phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Theo báo cáo của Ban Chiến lược Petrovietnam, sự chuyển dịch năng lượng theo kịch bản Net Zero đến năm 2030 sẽ dựa vào các trụ cột chính là tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo và điện khí hóa.
Sau năm 2030, chuyển dịch năng lượng sẽ theo hướng năng lượng sinh học, hydrogen, nhiên liệu gốc hydrogen và thu hồi và lưu giữ carbon (CCUS). Trong đó, hydrogen đóng góp khoảng 10% trong việc giảm phát thải CO2 cùng với các công nghệ trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng, điện khí hóa, năng lượng sinh học và CCUS. Ước tính các công nghệ này sẽ giảm phát thải khoảng 36,9 tỷ tấn CO2 vào năm 2050. Nhu cầu hydrogen đến năm 2050 dự báo sẽ có thể tăng 5-8 lần so với năm 2020, trong đó chủ yếu là hydrogen “xanh” (hydro được tạo ra từ điện phân nước).
Lợi thế của Petrovietnam
Theo các ý kiến đánh giá, Petrovietnam sở hữu nhiều lợi thế để đi đầu trong làn sóng dịch chuyển năng lượng ở Việt Nam cả về cơ sở hàng tầng, làm chủ công nghệ… Đặc biệt, là doanh nghiệp đứng đầu Việt Nam về cơ khí chế tạo, thi công và xây lắp các công trình dầu khí ngoài khơi, Petrovietnam và các đơn vị thành viên có đủ kinh nghiệm cũng như năng lực triển khai ở tất cả giai đoạn của dự án năng lượng tái tạo ngoài khơi. Trong đó có các dự án điện gió ngoài khơi làm cơ sở để sản xuất hydro xanh trong tương lai.
Cơ sở hạ tầng sẵn có với hệ thống đường ống vận chuyển và phân phối, các kho chứa, cửa hàng kinh doanh xăng dầu… và kinh nghiệm vận hành hệ thống khí tự nhiên cũng là lợi thế để Petrovietnam ứng dụng cho lĩnh vực hydro.
Bên cạnh đó, các nhà máy lọc hóa dầu cũng như các nhà máy sản xuất phân đạm của Petrovietnam là những khách hàng trực tiếp sử dụng nguồn hydro xanh để thay thế từng bước nguồn hydro xám hiện nay. Petrovietnam có thể sử dụng hydro xanh để chế biến nhiên liệu tổng hợp từ các nguồn khí có hàm lượng CO2 cao hiện có tại Việt Nam.
Petrovietnam chuẩn bị các bước đón đầu xu hướng
Từ năm 2019, Petrovietnam đã bắt đầu xây dựng kế hoạch, lộ trình liên quan đến chuyển dịch năng lượng trên tinh thần triển khai mang tính liên tục, lâu dài. Petrovietnam cùng các đơn vị thành viên cũng có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng cho quá trình chuyển dịch năng lượng bằng việc sản xuất và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo thay thế.
Petrovietnam định hướng từ năm 2025 - 2030 sẽ triển khai thí điểm các dự án sản xuất hydrogen “sạch”; tìm kiếm các nguồn tài chính để triển khai các dự án năng lượng sạch; tìm kiếm khách hàng có nhu cầu trong nước và khu vực để phát triển thị trường; cải hoán hạ tầng vận chuyển, xử lý, tồn trữ, phân phối khí. Từ năm 2030 - 2045, tập đoàn sẽ sản xuất thương mại hydrogen “sạch” sử dụng cho các nhà máy lọc dầu, nhà máy đạm và phát triển các dự án sản xuất nhiên liệu, nguyên vật liệu và xuất khẩu hydrogen “sạch” cho các thị trường trong khu vực, thế giới…
Hiện, tại các cơ sở lọc dầu Dung Quất và Nghi Sơn đang xây dựng kế hoạch nghiên cứu dài hạn về hydrogen. Hai nhà máy đạm Phú Mỹ và đạm Cà Mau cũng có dự án thử nghiệm sử dụng hydrogen xanh thay thế một phần sản xuất amoniac.
Petrovietnam đã ký MOU với Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB về việc xây dựng quan hệ đối tác chiến lược trong giai đoạn 2021-2024 nhằm thúc đẩy phát triển năng lượng sạch và bền vững tại Việt Nam, cũng như hỗ trợ Petrovietnam đạt được các mục tiêu chuyển đổi năng lượng xanh.
Theo đó, ADB hỗ trợ Petrovietnam xây dựng chiến lược và lộ trình chuyển dịch năng lượng xanh, đánh giá cơ hội CCUS trong các lĩnh vực, xây dựng lộ trình CCUS và chuẩn bị một dự án thí điểm trở thành công ty hàng đầu phát triển hydro lam và xanh ở Việt Nam, bao gồm sản xuất, phân phối và lưu trữ hydro; Tư vấn giao dịch hoặc cho vay để phát triển dự án gió ngoài khơi…
Ngoài ra, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cũng điều chỉnh chiến lược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu nâng Tổng công suất đặt đạt 8.000 - 14.000 MW và tỷ trọng nguồn điện tái tạo chiếm 5-10% tổng công suất đặt của Petrovietnam. Đến 2045, Petrovietnam phấn đấu nâng công suất đặt chiếm từ 8-10% tổng công suất Hệ thống điện Việt Nam và tỷ trong nguồn năng lượng tái tạo chiếm 10-20% trong tổng công suất nguồn điện Petrovietnam.
Mới đây ông Lê Mạnh Hùng, Tổng Giám đốc Petrovietnam nhấn mạnh, “Chuyển dịch năng lượng là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng học hỏi và luôn nhận thức đó xu hướng tất yếu không thể thay đổi, Petrovietnam không thể đứng ngoài cuộc".
Ngọc Minh