Lời giới thiệu:
Cụm tình báo có bí số H.63, được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân từ năm 1970, khi miền Nam còn chưa hoàn toàn giải phóng.
Năm 2007, nhóm phóng viên của Báo VietNamNet được giao một nhiệm vụ đặc biệt. Đó là kể về phần nổi trong tảng băng chìm dày, về những chiến công, hy sinh của những người hoạt động trên mặt trận thầm lặng: Tình báo quân sự. Do giới hạn của cuốn sách này, nhóm tác giả không thể giới thiệu đầy đủ 48 kỳ của cả tuyến bài, chỉ chọn lọc một số phần viết về các nhân vật trong cụm tình báo H.63.
Tác giả Thế Vinh, 1 trong 3 người viết, hiện là Phó Tổng biên tập báo VietNamNet.
-------
Trong di cảo còn lưu giữ lại đến giờ, huyền thoại tình báo Việt Nam - Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn đã dành hẳn những dòng viết đầy trang trọng cho người phụ nữ ấy: "Năm 1960, Tám Thảo (Mỹ Nhung) chính là người đã móc nối cho Hai Trung (tức Phạm Xuân Ẩn, bí số 2T) trở lại với tổ chức. [...] Đến sau này, khi phải chiến đấu âm thầm trong lòng địch, đôi lúc vì quá cô đơn giữa kẻ thù, Hai Trung đã tự ý tìm đến gia đình cô, để được nói chuyện, được sống thật và được cân bằng lại chính mình".
Tám Thảo hay Mỹ Nhung, cô là ai mà nhà tình báo lỗi lạc Phạm Xuân Ẩn dành trọn niềm tin đến như vậy?
Chuyện về cô khó có thể bắt đầu bằng hình ảnh nào khác ngoài một bức tranh về người con gái đẹp bước ra từ nhung lụa. Quê gốc Bắc Ninh, là con một gia đình tư sản giàu có ở Sài Gòn, ngay từ 16 tuổi, Mỹ Nhung đã theo cách mạng và được gia đình ủng hộ. Về danh nghĩa, cô làm việc cho Hải quân Mỹ, nhưng trong nhiều năm, gia đình cô đã che chở cho ông Tư Cang – cụm trưởng Cụm tình báo đầu tiên của miền Nam Việt Nam H63, đồng thời cũng là liên lạc viên cho huyền thoại tình báo Phạm Xuân Ẩn. Cả hai ông và chính cô sau này đều được phong tặng Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam.
Bài viết này nói về nữ anh hùng Tám Thảo - Nguyễn Thị Mỹ Nhung đã mưu trí cứu người đồng đội khỏi hiểm nguy trong trận Mậu Thân 1968 mà vẫn bảo vệ an toàn cho gia đình của mình.
Vừa mới ở rừng ra, người lính đặc công bắn hai tay hai súng Tư Cang bỗng chốc trở thành “anh Tư” trong gia đình người đẹp. Để tránh bị nhòm ngó, Tám Thảo nghĩ ra cách thỉnh thoảng mời sếp người Mỹ đang làm ở Hải quân Hoa Kỳ... về nhà chơi. Những chuyến thăm của viên thiếu tá Mỹ tới gia đình nhà tư sản bỗng nhiên tạo thành chiếc khoá an toàn cho ông thiếu tá Việt cộng.
Trước ngày cô Tám Thảo xin cho Tư Cang về nhà, ba cô cũng nghĩ ngợi ghê lắm. Trong nhà vốn toàn các cô chưa lập gia đình, tiêu tiền kiểu tư sản, nay tự nhiên lại xuất hiện một anh lính ở rừng về, chưa biết hoạ phúc ra sao.
Ông cụ vẫn còn nhớ, gần hai chục năm trước đó, ngày cô xin đi vào chiến khu làm cách mạng, sợ ba gặp khó khăn, cô liều bảo: “Con đi vào rừng không có nhà. Nếu ai làm khó dễ ba, ba cứ bảo là con mê thằng nào rồi theo nó bỏ đi Nha Trang, Đà Lạt nha. Vậy nên ba tức chuyện, ba từ con luôn, nói thế cho an toàn”.
Khác với mọi khi luôn gật đầu vì cưng chiều con gái, lần này, ông nhất định không chịu: “Đâu có được, con gái của ba, không bao giờ ba bêu tiếng xấu như vậy. Con cứ đi, để ba ở nhà tuỳ cơ ứng biến”.
Nhưng lần này, câu chuyện lại hoàn toàn ngược lại. Tám Thảo vẫn ở trong nhà, chỉ có điều, thêm một người đàn ông lạ mặt đến tá túc. Nhưng chuyện đó có lẽ chẳng thành vấn đề gì, tình thương của ông đối với cán bộ đã giúp ông gạt phăng hết ngại ngần.
Về ở với gia đình ông, “thằng Tư” sẽ bớt đi nhọc nhằn, nguy hiểm. Trong khi chiến tranh đang leo thang, tài liệu mật càng nhiều, nếu cứ đi đi về về sẽ còn nguy hiểm nữa.
Vậy nên không cần đợi cô thuyết phục, ông gật đầu đồng ý. Với vỏ bọc “anh rể thứ tư”, từ hôm đó, cứ sáng ra, “anh Tư” đưa Tám Thảo đi làm. Chiều về, viên thiếu tá Mỹ lại chở cô về tận cửa. Bà con hàng xóm cũng có người tò mò, nhưng tiểu thư Mỹ Nhung nổi tiếng vừa đoan trang vừa kiêu kỳ nên chẳng ai dám lời ong tiếng ve.
Một bữa, trên đường tới sở, tự nhiên nghĩ ra điều hay, cô kều tay nói giỡn với Tư Cang: “Anh Tư nè, em nghĩ đời mình cũng hay thiệt nghe. Sáng thì thiếu tá tình báo Việt cộng chở honda đi làm, chiều thì thiếu tá tình báo Mỹ xách bỏ lên xe jeep chở về. Anh bảo có ai được như vậy không?”.
Nghe cô cười khanh khách, ông thiếu tá Việt cộng cứ nghĩ mà xót xa. Khi ấy, cô đã gần 40 nhưng vô cùng quyến rũ. Bao nơi muốn mối lái, vậy mà cô cứ mải mê đi “làm Việt cộng”, chẳng hề tính đến hạnh phúc trăm năm.
Thời đó, có những lúc cũng có người gợi ý, sao hai người ở gần mà không cưới nhau đi, tạo luôn cái vỏ bọc hợp pháp cho an toàn? Nhưng cô chỉ điềm tĩnh bảo: “Anh đã có vợ, còn chúng tôi lại chỉ là đồng chí, làm sao có thể yêu nhau theo cái kiểu lửa gần rơm lâu ngày cũng bén được vậy?”
Cứ như thế, suốt từ năm 1966, trong ngôi nhà tư sản toàn tiểu thư xinh đẹp trên đường Gia Long, có một ông nông dân chính hiệu thường xuyên ra vào. Với gia đình cô, chưa bao giờ ông là người lạ, dù cho lối sống đã quen kham khổ của ông khác xa với gia đình.
Tình quân dân, tình đồng chí lúc này là trên hết. Cô và ông đều là người Việt, đều đang chiến đấu cho Nam Bắc một nhà!
Hai phát súng sinh tử
Đêm 31/1/1968, cuộc tổng tiến công Mậu Thân bắt đầu. Đã biết qua từ trước nên cả gia đình cô đều sẵn sàng chuẩn bị tinh thần.
Trước đó, theo yêu cầu của cấp trên, cô đã kịp chuyển tài liệu bố phòng quân sự tại Bộ Tư lệnh Hải quân ra ngoài căn cứ để làm sơ đồ cho biệt động Sài Gòn tấn công.
Đêm về, trong ngôi nhà bề thế nằm giữa trung tâm thành đô, cô có thể nghe tiếng súng nổ và quan sát những nhánh quân đang di chuyển về phía dinh Độc Lập. Lực lượng mỏng, gặp phải trục trặc ban đầu, đội biệt động Sài Gòn ngay khi vừa tấn công đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt.
Ngay sáng hôm sau, quân Cộng hoà chi viện thêm lực lượng. Các chiến sĩ biệt động phải mở đường máu thoát ra ngoài và cố thủ tại một toà nhà còn đang xây dở. Cuộc chiến giằng co đến vài ngày. Đội biệt động của ta rơi vào tình cảnh nguy cấp. Khắp nơi, lính Cộng hoà bao vây kín cả trên trời dưới đất. Cả lính Mỹ và lính Đại Hàn tăng cường vây bủa.
“Suốt 2-3 ngày liền, hai anh em cứ nằm bò trên gác để theo dõi mà không thấy chiến sĩ nào thoát ra”. Tiếng súng trong toà nhà thì cứ ngày một thưa dần rồi yếu hẳn. Linh cảm thấy đồng đội đang gặp nguy hiểm, cô quyết định: chia lửa cùng anh em.
Nhìn quanh những tên lính đang vây ráp, thấy có cả toán lính đánh thuê Đại Hàn, Tám Thảo giục anh Tư: Bắn!
Nhưng Tư Cang là chỉ huy lưới khi đó. Nhiệm vụ của ông là nằm vùng để chỉ huy và giúp đỡ nhà báo Phạm Xuân Ẩn chứ không phải chiến đấu trực tiếp. Hơn nữa, nếu bị lộ, không chỉ mình ông mà cả gia đình cô sẽ vào vòng tù tội, không chỉ cách mạng mất đi một cơ sở mà công sức gây dựng một lưới tình báo chui sâu leo cao trong lòng địch cả chục năm qua sẽ đổ sụp.
Ông băn khoăn ghê gớm. Nhưng Tám Thảo một mực giục ông: “Sao anh nỡ nhìn đồng đội mình chết? Mọi chuyện em sẽ lo, anh cứ bắn đi”.
Thế rồi, trước máu của đồng đội và nước mắt của cô, người anh hùng có tài bắn hai tay hai súng giương cao khẩu K54. “Đoàng, đoàng!” Hai phát đầu tiên, một chỉ huy Mỹ, một chỉ huy Đại Hàn ngã gục.
Phản xạ như chớp, Tám Thảo chạy nhanh xuống dưới tầng, chôn luôn mấy viên đạn còn lại cùng 2 vỏ đạn vào đống rác để đề phòng lính kéo đến lục lọi. Xong xuôi, cô cũng kéo luôn ông xuống nhà, giấu ông vào phía sau căn gác xép chứa đầy vải vóc, nơi để tài sản buôn bán của gia đình.
Còn toán lính, ngay khi nghe tiếng súng nổ, đã hô lên ầm ĩ “có Việt cộng”. Họ chia người bủa vây khắp nơi, đập cửa nhà cô ầm ầm. Trời tối, cô vừa giả bộ tìm chìa khoá để kéo dài thời gian, vừa nghĩ nhanh cách ứng phó.
Tới khi tốp lính xộc vào trong thì ba cô cũng đã gọi tất cả 8 người dậy, lấy nước mời uống. Nhìn phong cách gia đình lịch thiệp, lại thêm các cô gái trẻ đẹp, viên chỉ huy bắt đầu hạ giọng. Nhưng tốp lính vẫn toả đi sục sạo khắp góc nhà, vừa tìm vừa quát hỏi để “nắn gân” mọi người.
Nhìn thấy mẹ cô, viên chỉ huy quát lớn: “Bà già, sao lại mặc đồ trắng thế kia?” (vì ngày đó các cụ hay mặc đồ đen). Mẹ cô - do đã chuẩn bị tinh thần từ trước - nên từ tốn trả lời: “Tôi không biết nữa, thích thì mặc thôi”. Nghe câu trả lời không chút bối rối, viên chỉ huy cười bảo: “Tôi giỡn bà già đó” rồi lại tiếp tục ngó nghiêng.
Chỉ đến khi nhìn thấy ảnh ông thiếu tá Mỹ rất đẹp trai mà cô treo đầu giường, viên chỉ huy mới thật sự hạ nhiệt: “Ủa, ai đây vậy cô?”. “Sếp tôi đó”. Chỉ trong một giây, cô thoáng thấy vẻ bối rối ngại ngần của anh ta. Nhìn quanh quất lấy lệ cho xong, viên chỉ huy xin lỗi rồi rút quân về.
Khi toán lính rút đi rồi, cô mới nhận ra rằng, mình vừa đi qua cõi chết. Sau một hồi im ắng, ông Tư Cang từ trong nơi ẩn nấp bước ra, nghẹn ngào cảm ơn cô cứu mạng. Cô cầm tay ông rồi cứ thế oà khóc. Khoảnh khắc này cô mới thực sự hiểu: Làm tình báo đâu phải bước đi trên con đường đầy nắng, tung truyền đơn đẹp như thảm hoa giống như tiểu thuyết mà cô đọc đầu đời. Làm tình báo không bao giờ được mắc lỗi. Nhưng sẽ bi kịch thế nào khi phải nhìn đồng đội chết trước mắt mà không được nổ súng, nhìn đồng bào bị tra tấn dã man mà không được rơi lệ? Trong phút lâm nguy nhất, bản năng sống và tự vệ đã giúp cô đối đầu được cả nhóm biệt kích lăm lăm súng đạn.
Mấy ngày sau, cô đưa ông Tư Cang về căn cứ. Đối diện với nhà cô là nhà một viên chỉ điểm. Những ngày Tư Cang tá túc tại đây, anh ta biết thừa cái “anh rể Tư” chỉ là vỏ bọc. Nhưng kỳ lạ ở chỗ, biết gia đình cô che chở cho cán bộ cách mạng, anh ta cũng không tố cáo bao giờ. Có thời nhà anh ta khó khăn chật vật nhất, gia đình cô vẫn thương tình giúp đỡ, cho mượn 100.000 để giúp vợ chồng làm ăn.
Sau này, khi đã dư dả, sống thêm bằng lương chỉ điểm, nhưng anh ta vẫn luôn tôn trọng gia đình. Một người hàng xóm của cô có con rể làm đại úy cảnh sát, sau ngày giải phóng, cũng nói lại: “Tao biết hết việc làm của tụi bay nghe. Đứa này đi Nam, đứa kia về Bắc, nhưng tao có nói gì hết đâu”.
Mỗi lần nghe vậy, cô đều xúc động.
Trong chiến tranh nhân dân, nếu không có những người đồng bào thương yêu mình thật sự, liệu cô có còn sống sót? Liệu ông Tư Cang có hoàn thành nhiệm vụ? Liệu Phạm Xuân Ẩn có trở thành anh hùng? Và liệu dân tộc này có thể giành chiến thắng?
Phần 2: Điệp viên bí ẩn trong Bộ Tổng Tham mưu Sài Gòn
Thế Vinh - Trường Giang - Việt Hà