Trước đó, trong ngày, Thủ tướng và đoàn công tác đã di chuyển trên quãng đường gần 500 km qua các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, kiểm tra thực địa các dự án cao tốc Mai Sơn–Quốc lộ 45, Diễn Châu–Bãi Vọt thuộc giai đoạn 1 và dự án Bãi Vọt–Hàm Nghi thuộc giai đoạn 2.
Quyết liệt lấy lại và thúc đẩy tiến độ các dự án
Theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải, tuyến cao tốc Bắc-Nam phía đông đoạn từ Ninh Bình đến Quảng Trị có tổng chiều dài là 480,5 km qua địa bàn các tỉnh Nam Định (5,2 km), Ninh Bình (24,5 km), Thanh Hóa (98,8 km), Nghệ An (87,9 km), Hà Tĩnh (107,14 km), Quảng Bình (124,41 km), Quảng Trị (32,53 km); được chia thành 10 dự án thành phần thuộc 02 giai đoạn. Quy mô đầu tư giai đoạn hoàn chỉnh 06 làn xe cao tốc, phân kỳ đầu tư 04 làn xe với bề rộng nền đường 17 m.
Trong đó, giai đoạn 1 (2017–2020) có tổng chiều dài là 221,2 km gồm 05 dự án thành phần (01 dự án đầu tư PPP và 04 dự án đầu tư công): Dự án Cao Bồ-Mai Sơn, Mai Sơn-Quốc lộ 45, Quốc lộ 45-Nghi Sơn, Nghi Sơn-Diễn Châu, Diễn Châu-Bãi Vọt.
Giai đoạn 2 (2021-2025) có tổng chiều dài là 259,3 km gồm 05 dự án thành phần đầu tư công qua địa bàn các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị: Dự án Bãi Vọt-Hàm Nghi, Hàm Nghi-Vũng Áng, Vũng Áng-Bùng, Bùng-Vạn Ninh, Vạn Ninh-Cam Lộ.
Trong 05 dự án thành phần của giai đoạn 1, đoạn Cao Bồ-Mai Sơn (dài 15,2 km) đã hoàn thành vào đầu năm 2022; 04 dự án còn lại đang triển khai thi công, trong đó đoạn Mai Sơn- Quốc lộ 45 (dài 63,37 km) dự kiến hoàn thành ngày 30/4/2023; đoạn Quốc lộ 45-Nghi Sơn (dài 43,28 km) và đoạn Nghi Sơn-Diễn Châu (dài 50 km) hoàn thành vào quý III/2023; đoạn Diễn Châu-Bãi Vọt (dài 49,3 km) hoàn thành vào Quý II/2024.
Cụ thể, đoạn Mai Sơn–Quốc lộ 45 gồm 05 gói thầu xây lắp; lũy kế sản lượng đến nay là 6.275,18/7.237,13 tỷ đồng (86,7% giá trị hợp đồng). Giải ngân xây lắp lũy kế đạt 6.159,01/7.237,14 tỷ đồng (85,1% giá trị hợp đồng).
Đoạn Quốc lộ 45-Nghi Sơn gồm 03 gói thầu xây lắp; lũy kế sản lượng đến nay là 1.828,225/3.117,31 tỷ đồng (58,65% giá trị hợp đồng). Giải ngân xây lắp lũy kế đạt 1.911,27/3.117,31 tỷ đồng (61,31% giá trị hợp đồng).
Đoạn Nghi Sơn-Diễn Châu gồm 04 gói thầu xây lắp; lũy kế sản lượng đến nay là 2.786,50/4.395,95 tỷ đồng (63,4% giá trị hợp đồng). Giải ngân xây lắp lũy kế đạt 2.848,10/4.395,95 tỷ đồng (64,8% giá trị hợp đồng).
Đoạn Diễn Châu-Bãi Vọt (dự án PPP) gồm 04 gói thầu xây lắp; lũy kế sản lượng đến nay là 2.136,0/8.595,05 tỷ đồng (25,0% giá trị hợp đồng). Lũy kế giải ngân xây lắp đạt 1.751,87/8.595,05 tỷ đồng (20,38% giá trị hợp đồng).
Về các dự án thuộc giai đoạn 2, các địa phương đã bàn giao mặt bằng được 189,43/259,12 km đạt 73%, đủ điều kiện để các nhà thầu tổ chức thi công và đang tiếp tục thực hiện để bảo đảm bàn giao 100% diện tích mặt bằng vào quý II năm 2023. Các địa phương đang lập phê duyệt phương án di dời hạ tầng kỹ thuật, lựa chọn nhà thầu thi công để di dời trong quý II năm 2023.
5 dự án giai đoạn 2 (từ Hà Tĩnh tới Quảng Trị) được chia thành 9 gói thầu xây lắp, trong đó 8/9 gói thầu đã ký kết hợp đồng xây lắp, còn lại 1 gói thầu thuộc dự án Vũng Áng-Bùng dự kiến sẽ ký hợp đồng ngày 06/02/2023.
Với các gói thầu đã ký kết hợp đồng, các nhà thầu đang lập kế hoạch triển khai, tổ chức khảo sát, lập thiết kế bản vẽ thi công, huy động nhân sự, máy móc, thiết bị, xây dựng lán trại, hoàn thiện các thủ tục khai thác mỏ…. một số gói thầu đã tổ chức triển khai thi công (đường công vụ, đào bóc hữu cơ, chuẩn bị mặt bằng để lắp đặt trạm trộn).
Trong dịp Tết Quý Mão, các nhà thầu đã làm việc liên tục, thực hiện các công việc xây dựng văn phòng hiện trường, phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công, thi công triển khai các hạng mục đường công vụ, đào bóc hữu cơ, san nền,… tại các đoạn tuyến thuận lợi về địa hình.
Một vấn đề đặt ra tại các dự án giai đoạn 2 là vật liệu xây dựng. Các mỏ đều đáp ứng về trữ lượng, chất lượng để phục vụ 5 dự án nhưng về khả năng khai thác, cung ứng đối với vật liệu cát theo giấy phép khai thác như hiện nay chưa đáp ứng theo tiến độ thi công của các dự án. Do đó, cần được áp dụng cơ chế đặc thù để nâng công suất khai thác lớn hơn mới đáp ứng tiến độ dự án.
Để tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì làm việc với Bộ Giao thông vận tải và có Thông báo số 167/TB-BTNMT ngày 25/11/2022, theo đó "Đối với các khu mỏ đất khai thác làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ Dự án thuộc các hạng mục của Dự án được phê duyệt theo quy định thì thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại khoản 1 Điều 62 Luật Đất đai, các địa phương sẽ tổ chức thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định, kinh phí được sử dụng từ nguồn kinh phí giải phóng mặt bằng của Dự án". Tuy nhiên, các địa phương vẫn còn chưa rõ một số nội dung.
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, các dự án trước đây chậm tiến độ đến nay đã lấy lại được tiến độ, với chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ và các giải pháp đồng bộ được các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp liên quan triển khai.
Với các dự án giai đoạn 1, Bộ trưởng nhấn mạnh vẫn phải hết sức quyết liệt thì mới giữ được tiến độ của tất cả các dự án. Theo đó, phải yêu cầu các nhà thầu duy trì tiến độ, 03 ca, 04 kíp thi công như thời gian vừa qua, không được rút bớt máy móc, thiết bị để triển khai các dự án mới; với các công trình chậm tiến độ, phải tăng ca, tăng kíp bù khối lượng đã bị chậm tiến độ.
Tiếp tục tăng cường kiểm tra, đôn đốc và theo dõi nếu nhà thầu chuyển biến chậm, nguy cơ ảnh hưởng đến tiến độ chung dự án, kiên quyết điều chuyển khối lượng hoặc thay thế nhà thầu chậm tiến độ.
Cùng với đó, khẩn trương xây dựng kế hoạch cung cấp và duy trì nguồn tài chính phục vụ thi công dự án đáp ứng tiến độ yêu cầu; nêu cao tinh thần phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành dự án…
Với các dự án giai đoạn 2, Bộ trưởng lưu ý việc giải quyết nguồn cung nguyên vật liệu cho các dự án, với vai trò rất quan trọng của các địa phương. Các nhà thầu phải tập trung tối đa nhân lực, thiết bị… để khẩn trương thi công ngay từ đầu; rút kinh nghiệm từ giai đoạn 1 về các vấn đề nguyên vật liệu, thời tiết; có vấn đề phát sinh phải kịp thời trao đổi với ban quản lý dự án để tháo gỡ…
Sửa đổi tiêu chí, tiêu chuẩn lựa chọn nhà thầu bảo đảm công khai, minh bạch
Kết luận cuộc họp kết thúc lúc 21h tối, Thủ tướng nhắc lại những ấn tượng về khí thế trên toàn quốc, với quyết tâm rất cao của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của toàn quân, toàn dân để hưởng ứng, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với mục tiêu phấn đấu tới 2025 có 3.000 km cao tốc và tới 2030 có ít nhất 5.000 km cao tốc.
Thủ tướng cho rằng, hai vấn đề quan trọng nhất với các dự án cao tốc là vốn và ý thức của toàn dân, chúng ta đã có, vấn đề là việc tổ chức thực hiện nhanh nhất, hiệu quả nhất, chuyển hóa quyết tâm chính trị rất cao thành hành động. "Trong gần 20 năm, chúng ta mới làm được khoảng 1.000 km cao tốc, nhưng chúng ta có cơ sở, điều kiện để thực hiện mục tiêu đã đề ra trong những năm tới", Thủ tướng nhấn mạnh.
Thủ tướng ghi nhận, đánh giá cao sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp, sự đồng thuận, hưởng ứng, vào cuộc tích cực của người dân.
Về một số vấn đề nổi lên qua khảo sát thực tế, Thủ tướng cho biết, người dân khẳng định "rất sẵn sàng nhường đất, nhưng giải phóng mặt bằng phải nhanh để ổn định cuộc sống". Thủ tướng nhấn mạnh vai trò quan trọng của cấp ủy, chính quyền địa phương với công tác giải phóng mặt bằng-khâu có ý nghĩa quyết định tới tiến độ các dự án. Hiện giải phóng mặt bằng giai đoạn 2 đã nhanh hơn so với giai đoạn 1, nhưng vẫn còn vướng mắc. Thủ tướng giao các cơ quan phối hợp chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, khẩn trương giải quyết các vướng mắc, nếu vượt thẩm quyền thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Vấn đề thứ hai là nguyên vật liệu cho các dự án. Thủ tướng cho biết, một số dự án ở miền núi phía Bắc như tuyến Tuyên Quang-Phú Thọ về cơ bản có thể tự cân đối được nguyên vật liệu. Song với các dự án ở miền Trung, nguyên vật liệu là vấn đề cần giải quyết. Trong chuyến công tác cách đây 1 năm, Thủ tướng đã có chỉ đạo và sau đó Chính phủ đã có các nghị quyết về vấn đề này. Các cơ quan, địa phương cần rà soát lại, làm tốt hơn công việc này, nếu địa phương này không đủ nguyên vật liệu thì liên hệ với các địa phương khác để xử lý các vướng mắc, tạo thuận lợi cho nhà thầu.
Thủ tướng yêu cầu thực hiện nghiêm theo nghị quyết, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về nguyên vật liệu cho các dự án, tinh thần là cắt giảm tối đa khâu trung gian, tránh đội giá, giảm thời gian, thủ tục, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân, doanh nghiệp. Kiểm tra, rà soát, chấn chỉnh việc cấp các mỏ nguyên vật liệu, xử lý nghiêm các sai phạm, không để tình trạng tài nguyên là của đất nước nhưng nhiều mỏ đất, đá… lại giao tư nhân quản lý và họ lợi dụng để "bắt chẹt", nâng giá, gây khan hiếm nguyên vật liệu, ảnh hưởng tới tiến độ dự án. "Đất nước này không thể chấp nhận việc đó, không để kiểu kinh doanh như vậy, trong lúc người dân tích cực hưởng ứng và rất trông đợi", Thủ tướng nhấn mạnh.
Thủ tướng yêu cầu với các dự án cao tốc nói chung cần tránh tình trạng chia quá nhỏ các gói thầu, có quá nhiều đơn vị thi công trên một tuyến đường, mất nhiều thời gian làm các thủ tục, khó kiểm soát tiến độ và chất lượng, dễ nảy sinh tiêu cực. Rút kinh nghiệm từ giai đoạn 1, Thủ tướng đã yêu cầu mỗi gói thầu trong giai đoạn 2 ít nhất phải khoảng 50 km. Từng cảnh báo vấn đề này cách đây 1 năm, ông đề nghị Bộ Công an vào cuộc để làm rõ, xử lý nghiêm các sai phạm nếu có.
Với các đơn vị tư vấn, Thủ tướng yêu cầu tránh tình trạng "ăn xổi ở thì", như cao tốc chỉ làm 2 làn đường, vừa làm xong đã phải làm lại, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông; cao tốc ít nhất phải có 4 làn xe hoàn chỉnh với các nút giao, điểm dừng, làn dừng… nhân đây, Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải xử lý ngay tình trạng mất vệ sinh môi trường ở các điểm dừng trên cao tốc Pháp Vân-Ninh Bình.
Thủ tướng nhấn mạnh, việc thi công các dự án bảo đảm an toàn; tiến độ; chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật, vệ sinh môi trường; không đội giá; không để xảy ra tham nhũng, tiêu cực; quan tâm đời sống công nhân.
Thủ tướng một lần nữa lưu ý việc triển khai các dự án cao tốc cần đi theo hướng tuyến thẳng nhất, ngắn nhất có thể, không bám theo đường cũ hay khu dân cư, "qua sông bắc cầu, qua đồng đổ đất, qua núi khoét núi". Thủ tướng cho rằng, các dự án giai đoạn 2 đã cơ bản đáp ứng yêu cầu này, giảm được khâu giải phóng mặt bằng, hạn chế ảnh hưởng tới đời sống người dân, giảm chi phí, thời gian và tạo ra không gian phát triển mới.
Thủ tướng đề nghị công tác tái định cư phải nhanh, kịp thời, đúng chế độ, chính sách, quan tâm tới việc làm cho người dân, bảo đảm đời sống ở nơi ở mới phải bằng và phấn đấu cao hơn nơi ở cũ. Các địa phương, cơ quan tính toán các nút giao phù hợp, khai thác quỹ đất hiệu quả. Bộ Quốc phòng sớm đề xuất các giải pháp liên quan tới các công trình quốc phòng.
Các bộ, địa phương, chủ đầu tư, nhà thầu… phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả; nhà thầu, nhà quản lý phải tạo thuận lợi cho nhau; làm việc nào dứt điểm việc đó.
Thủ tướng nhấn mạnh bài học kinh nghiệm về bám sát thực tiễn, giải quyết ngay các vướng mắc, khó khăn; những vấn đề đã có kinh nghiệm trong giai đoạn 1 thì phải sửa đổi, chấn chỉnh cho phù hợp.
Các cơ quan nghiên cứu sửa đổi quy định, tiêu chí, tiêu chuẩn bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết để lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu tốt, đủ năng lực, tâm huyết, nói là làm, tránh tình trạng nhà đầu tư, nhà thầu đã có công trình tốt trong thực tế nhưng lại không được tham gia các dự án với lý do không đáp ứng tiêu chuẩn, tiêu chí, như vậy là tiêu chuẩn, tiêu chí có vấn đề. "Không cài cắm, lợi ích nhóm, làm sao để người làm được ngẩng cao đầu mà làm, công khai, minh bạch, không phải chạy vạy gì cả", Thủ tướng nhấn mạnh.
Nhắc lại thực tế là dự án Diễn Châu-Bãi Vọt rất khó khăn nhưng vẫn có thể huy động hợp tác công tư, nhiều dự án PPP triển khai nhanh hơn các dự án đầu tư công, Thủ tướng đề nghị tăng cường hợp tác công tư trên tinh thần hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
"Điểm cân bằng, hài hòa lợi ích cụ thể như thế nào thì các bộ phải ngồi lại tính toán với các nhà đầu tư. Các địa phương cũng phải chủ động hơn, tránh tình trạng một nút giao chỉ khoảng 400-500 tỷ đồng nhưng tạo động lực phát triển mới cho địa phương, cũng trông chờ Trung ương", Thủ tướng nhấn mạnh.
Theo VGP