Chiến tranh là chia ly, thậm chí là mất mát, mà cuộc đời đại uý tình báo Hai Kim chỉ là một trong nhiều ví dụ.
“Tôi giờ đã quên nhiều rồi, muốn hỏi gì thì phải tìm chị Hai Kim”. Lúc nào ông Ba Minh cũng nói về người đồng đội đặc biệt của mình như vậy. Đến ngay cả bây giờ, ông vẫn luôn một điều “chị”, hai điều “chị” khi nhớ về người phụ nữ thông minh ngay từ lần đầu gặp gỡ. Và niềm kính trọng của ông còn nhân lên gấp bội khi đến mãi sau khi hoà bình, ông mới hay: Chị là thủ trưởng!
Những bước chân trở về
… Năm 1966, Nguyễn Thị Xuân vừa tốt nghiệp ĐHSP ngành Hoá lý và được giữ lại trường.
Tháng 3-1967, Phòng tình báo Miền có nhu cầu tìm người hoạt động tại chiến trường miền Nam. Cách nói chuyện, phong thái tự nhiên cùng với thông tin 6 lần xin đi B mà không được của chị Kim đã gây bất ngờ cho cán bộ tuyển lựa. Sau một thời gian đào tạo về nghề nghiệp, ngày 1-4-1967, Nguyễn Thị Xuân lên đường về Nam, với bí danh Hai Kim.
Vượt vỹ tuyến 17 tại Quảng Trị, theo con đường hợp pháp, Hai Kim tới Huế. Trong vai đi tìm người thân đi lính tại Huế nhưng không gặp, Hai Kim ra Phú Bài mua vé máy bay vào Sài Gòn.
Tuy nhiên, khi đặt chân tới mảnh đất này, Hai Kim bị mất liên lạc, dù đã tới địa điểm hẹn chính lẫn địa điểm dự phòng đúng hẹn.
Vậy là suốt thời gian sau đó, chị phải tự mình tìm cách tồn tại giữa Sài Gòn đầy rẫy mật vụ, an ninh giăng lưới nhện dày đặc. Hai Kim phải đi ở đợ cho 1 gia đình người Hoa để lấy tiền trang trải cuộc sống, chờ cơ hội bắt liên lạc với tổ chức.
Rồi cơ hội cũng tới, sau một thời gian, chị được “móc” về R (căn cứ), nhận nhiệm vụ xuống bổ sung cho Cụm A33 ở miền Tây. Lúc này, ông Ba Phấn (Nguyễn Văn Phấn, Cụm trưởng Cụm tình báo A33, ở Cần Thơ) yêu cầu chị đi móc nối với anh Nguyễn Văn Minh (Ba Minh) - điệp viên H3 bí mật trong Bộ Tổng Tham mưu.
Hai Kim đến với anh em nhà Ba Minh vào năm cuối 1973, xây dựng lên lưới điệp báo A3 huyền thoại, với bí danh T2. Là giao liên, mỗi lần vận chuyển tài liệu, Hai Kim thường mang tới 4-5 tờ giấy pơluya. Mang tài liệu trong người, “nhiều lúc cũng run”. Trên đường ra khỏi nội thành có nhiều trạm kiểm soát, Hai Kim luôn cố gắng tránh những trạm xét gắt gao và bằng mọi cách vượt qua.“Lúc từ cứ đi vào thành thì nó không xét, lúc mang tài liệu từ thành vô cứ thì nó hay xét. Những chỉ thị cấp trên giao cho lưới, chỉ nhớ trong đầu chứ không ghi ra giấy”, Hai Kim nhớ lại.
Chỉ có 2 lần, Hai Kim bị giữ với cùng một tội. Năm 1968, bà bị bắt ở gần sông Sài Gòn vì cư trú bất hợp pháp. Cảnh sát bắt bà đưa vào khám (trại giam), phạt 200 đồng. “Lần đầu vi phạm, nó trả lại căn cước”, bà cười. Lần sau, cũng bởi tội “cư trú bất hợp pháp”, bà bị thu giữ giấy tờ, phải về tận miền Tây xin lại. Đóng 200 đồng tiền phạt, bà khai mù chữ, chỉ biết điểm chỉ vào giấy nhận.
Chỉ trong 1 năm hoạt động, với những thành tích xuất sắc, cả H3 và T2 đều được cấp trên xét tặng Huân chương chiến công hạng 3.
Một mình, ngồi bên nào cũng lệch…
Cả cuộc đời cách mạng, bà chứng kiến nhiều nỗi đau, mất mát. Bà kể lại, ngay cả thời còn hoạt động, vợ chồng cách nhau không xa nhưng sống bên nhau chẳng được bao nhiêu. Vì nhiệm vụ, vì yêu cầu của tổ chức, vì bí mật của nghề tình báo.
… Năm 1951, trong một lần đi công tác, hai ông bà gặp nhau rồi quen nhau trong chiến khu. Họ có cảm tình rồi được tổ chức hỏi cưới giữa rừng. Bà nhớ hồi đó, ông thương bà, có viết thư mà không dám gởi. Sau được đơn vị gợi ý, giúp đỡ, đặt vấn đề cho 2 người, thì Tỏ mới dám đưa thư cho Xuân coi.
Bà cười nhẹ nhàng: ’’Hồi đó hổng dám nói yêu anh, yêu em gì, mà chỉ nói đại khái đi công tác thấy quen, thấy nhớ, viết thơ thăm hỏi. Hẹn nhau khi nào chuyển qua công tác thì đến các xã chơi…’’.
Đám cưới được tổ chức trên rừng, có cắt giấy làm hoa, uống nước suối, ăn bánh kẹo. Ngày cưới không có áo cô dâu, chỉ có bộ bà ba đen đưa Xuân… ’’về nhà chồng’’. Đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời bà.
Đến tháng 7-1952, khi Xuân đang mang thai thì chồng bị bắt tại huyện Cần Giờ. Tháng 10-1952, Xuân sinh con. Đến tháng 7-1954, tất cả quân dân chánh từ cấp huyện trở lên đều phải đi tập kết ra Bắc.Vợ chồng chia ly.
Tháng 4-2007, trong một ngôi nhà bé tẹo nép mình sâu trong ngõ nhỏ giữa TP.HCM ồn ã, bà Hai Kim đang sống cùng người cháu, nên lúc nào bà cũng thấy căn nhà rộng thênh thang. Trên bàn thờ, ngoài ảnh Bác Hồ, ảnh cha mẹ, còn có một tấm ảnh chồng bà: ông Trang Văn Tỏ. Ông đã bỏ bà đi đã mấy chục năm rồi.
Thời chiến, số bữa cơm ăn hai vợ chồng ăn với nhau chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thời bình, một mình một mâm cơm, bà ngồi bên nào cũng lệch…
“Bây giờ hạnh phúc riêng thì mình không có. Nói về gia đình thì cô thiệt thòi, nhưng cái cao quý nhất là mình được độc lập tự do. Có mấy ai đi suốt 1 ngày đường, cuối ngày lại ngoảnh nhìn phía sau, đếm coi mình đã đi mấy bước chân? Hạnh phúc của mình là nhìn tới tương lai. Giờ cô tuy không có con, nhưng có đứa cháu chăm sóc. Hơn nữa, dòng họ bên chú rất quý cô…’’ – Bà đã tràn nước mắt khi nhắc tới hai từ ’’hạnh phúc’’.
Hai Kim chỉ tiếc rằng, có những điều trước khi vượt vỹ tuyến về Nam muốn nói với chồng nhưng bà đã không có cơ hội nói được… Mẹ Xuân cũng chỉ mong lại được ôm đứa con sinh ra ở chiến khu trong vòng tay mình, ngay Xuân đi chỉ mới gần 2 tuổi, nhưng cũng không kịp nữa. Bà chỉ tiếc vậy thôi.
Vỹ thanh
Có rất nhiều câu hỏi đặt ra: Tình báo Việt Nam, họ là ai? Bằng cách nào để họ chiến thắng được 1 cỗ máy chiến tranh khổng lồ như Hoa Kỳ, khi đối diện trực tiếp với bộ máy tình báo tinh vi, truyền thống lâu đời như CIA.
Câu trả lời, có lẽ nên bắt đầu từ những người như Hai Kim, Ba Minh và những người trong gia đình H.3 đã tham gia lưới điệp báo A3 vậy.
Mấu chốt đầu tiên của mọi cuộc truy lùng những người trung kiên hoạt động trong lòng đối phương mà tất cả mọi thế lực, đứng trên góc nhìn của hệ tư tưởng lẫn quyền lợi đều đặt ra: Họ có phải là Đảng viên Đảng cộng sản hay không? Câu trả lời chỉ có 1: Họ là Đảng viên, nhưng đứng vào hàng ngũ từ thời gian nào? Sớm hay muộn, đó không phải là thước đo của lòng người cộng sản. Tại sao họ dám chấp nhận hy sinh như vậy?
Câu trả lời duy nhất đúng: Họ trước hết là những người yêu nước, không chấp nhận thân phận nô lệ. Họ không phải là những điệp viên được vẽ trên phim với dáng vẻ rất “khinh đời”: Đầu đội mũ kê-pi, người khoác áo choàng đen, chân giày da bóng lộn, mắt ngập nghè kính râm, tay luôn đút túi quần, tiền thì tiêu như nước, thi thoảng lại rút súng ngắn trong thắt lưng ra bắn “đoàng… đoàng…”.
Họ là người dân Việt Nam, lớn lên trong dân, sống nhờ vào dân, chiến đấu trong lòng dân, và được biết bao người dân xung quanh bảo bọc, chở che. Họ giản dị như trong chính lời tâm sự của Ba Minh: “Sức khoẻ mình như thế nên khả năng tôi đóng góp được cái gì tôi sẽ làm. Tôi đã nghĩ đến giả thiết khi mình là lính VNCH thế này, nếu có bị bắn lầm thì thôi. Còn đối với cách mạng, tôi chỉ nghĩ tôi góp sức để mà ít có thể đánh được nhiều, yếu có thể đánh được mạnh. Trong thâm tâm tôi nghĩ mình góp được cái gì thì góp, chết thì bỏ. Đơn giản vậy thôi“.
Tình báo Việt Nam được hình thành và phát triển từ những con người như vậy. Chỉ có thế, họ mới vượt qua được mọi cám dỗ đời thường, những vinh hoa, phú quý, những nguy hiểm thường nhật để có thể chấp nhận hy sinh cả đại gia đình vì mục tiêu độc lập cho Tổ quốc.
Trong nhà Đại tá, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nguyễn Văn Minh, ngày còn cha, trên bàn thờ có 4 chữ “Quốc Tổ Hùng Vương”. Đến đời ông, bàn thờ vẫn thiêng liêng như thế, và có 2 chữ: “Tổ Quốc“!
Trường Giang - Việt Hà - Thế Vinh