Các nhà thống kê ghi nhận Trung Quốc là đất nước yêu thích rau nhất toàn cầu. Trung bình, mỗi người dân ở đây ăn khoảng 384kg rau mỗi năm, tương đương 1kg/ngày - ngang 4 bông cải xanh.
Trong khi đó, Mỹ chỉ đứng vị trí thứ 44 với mức tiêu thụ khoảng 312g/ngày, tương đương hơn 1 bông cải xanh. Anh đứng vị trí 71 khi mỗi người dân ăn trung bình 227g/ngày.
Việt Nam đứng ở vị trí thứ 21 với mức tiêu thụ 174kg rau mỗi năm, tương đương 478g/ngày. So với mức 48kg rau vào năm 1961, Việt Nam đã có bước tăng nhảy vọt.
Đó là thống kê được Our World in Data đưa ra dựa trên dữ liệu của Liên Hợp Quốc.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị người trưởng thành nên ăn 200-250g rau mỗi ngày. Ăn đủ rau có liên quan đến nhiều lợi ích sức khỏe bao gồm tiêu hóa tốt hơn và giảm nguy cơ mắc bệnh tim, ung thư.
128 trong số 181 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng (tương đương 70%) ăn lượng rau ít hơn một bông cải xanh. 11 trong số 20 quốc gia tiêu thụ rau hàng đầu ở châu Á.
Mỹ đứng thứ 44 trong danh sách. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) cho biết chỉ 10% số người Mỹ trưởng thành ăn đủ lượng trái cây và rau củ được khuyến nghị. 50% số trẻ em nhận đủ lượng rau quả cần thiết.
CDC Mỹ đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về xu hướng này: “Trẻ nhỏ cần các chất dinh dưỡng cụ thể để hỗ trợ sự tăng trưởng và phát triển tối ưu. Một chế độ ăn nhiều rau quả có thể cung cấp các dưỡng chất đó. Hạn chế hoặc giảm thực phẩm, đồ uống có nhiều đường bổ sung rất quan trọng vì đường bổ sung có liên quan đến tăng nguy cơ béo phì, sâu răng, tiểu đường và bệnh tim mạch”.
Đây là tình huống tương tự ở Anh khi mọi người cũng lựa chọn thực phẩm chế biến sẵn và có đường nhiều hơn rau quả.
Ở cuối bảng xếp hạng chủ yếu là các quốc gia châu Phi khi phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực do biến đổi khí hậu và xung đột địa phương. Chad đứng cuối danh sách, đứng trên là Cộng hòa Dân chủ Congo và Ethiopia.
Danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ tiêu thụ rau nhiều nhất (số liệu năm 2020):
Trung Quốc: 384,25kg
Croatia: 350,57kg
Albani: 337,77kg
Guyana: 276,33kg
North Macedonia: 273,2kg
Tajikistan: 267,16kg
Tunisia: 264,24 kg
Thổ Nhĩ Kỳ: 258,19kg
Uzbekistan: 254,93kg
Bosnia and Herzegovina: 252,25kg