Khi xưa, đất trống ở khu Trung Tự (quận Đống Đa, Hà Nội) còn nhiều lắm, nhiều đến nỗi mà cái tên làng Trung Tự vẫn còn tồn tại trong trí nhớ mọi người một thời gian dài.
Giai đoạn 1980-1985, hầu như mọi miếng đất trống quanh các dãy nhà tập thể đều được tận dụng để trồng rau, trong đó nhiều nhất là rau muống. Cứ chiều tối, không khó để thấy hình ảnh cán bộ các cấp, cùng anh công nhân, chị cấp dưỡng tay xách xô, tay cầm cuốc đi trồng rau. Hầu như mỗi gia đình đều cố kiếm một mảnh đất nho nhỏ cho riêng mình, bất kể nó nằm rất xa khu nhà ở. Có bạn nhà ở B1 nhưng nhà lại có miếng đất trồng rau ở tận sau trường cấp 1-2 Trung Tự (chỗ sân chơi Con Voi bây giờ).
Để tăng thêm sức sống cho rau, chủ nhân còn truyền cả “cảm hứng” của mình đã để dành từ đêm hôm trước cho đất. Vì thế, mỗi khi có cơn gió mạnh thổi qua, cả một vùng đất trống mang đậm mùi của trứng bắc thảo muối, làm tăng thêm hương vị “đậm đà”.
Các hộ ở tập thể còn tìm cách tăng nguồn cung cấp chất đạm của gia đình bằng cách nuôi lợn hoặc gà công nghiệp. Từ nhà tắm cho đến góc bếp, sân vườn… đều được tận dụng khi có thể. Thế nên mới có chuyện vừa đi toilet vừa phải canh chừng gà mổ trên đầu hoặc người phải tắm chung với lợn.
Tùy theo cách chăm sóc của từng nhà, có những chú lợn nặng gần cả tạ và được nuôi theo kiểu bán lấy tiền. Lâu lâu đến kỳ “lên thớt”, sáng sớm chợt nghe một tràng éc éc… từ tầng trên xuống tầng dưới. Cũng có hộ lại chỉ nuôi lợn gà để cải thiện bữa ăn hàng ngày thôi.
Do không gian chật chội (không được phép cơi nới như bây giờ) nên không khí hơi ngột ngạt. Nhiều khi tắm xong, không biết có phải do chất lượng xà phòng hồi đó dở hay không mà người mình có mùi rất là… khó tả. Mà cũng có khi do xà phòng thật vì thời đó rất khó kiếm xà phòng tắm.
Văn hóa tinh thần
Mình không nhớ chính xác có phải thời đó tất cả các căn hộ ở tập thể Trung Tự đều được gắn một cái loa truyền thanh do Liên Xô sản xuất hay không. Chỉ nhớ rằng cả thời thơ ấu của mình gắn liền với cái loa đó. Loa chỉ phát theo thời điểm: buổi sáng, buổi trưa và buổi tối. Đến giờ vẫn không quên những giai điệu nhạc quen thuộc mở đầu các tiết mục như: Kể chuyện cảnh giác tối thứ 7, Phát thanh quân đội sáng sớm Chủ nhật hàng tuần, hay Đọc truyện đêm khuya hàng ngày.
Có thể do thời đó không có nhiều phương tiện truyền thông giải trí đa dạng như bây giờ nên nội dung phát thanh các chương trình này bao giờ cũng được người nghe rất tập trung cảm nhận. Nhạc điệu và giọng nói của phát thanh viên trong Kể chuyện cảnh giác có những đoạn nghe rất hồi hộp. Nhạc điệu và giọng nói phát thanh viên trong Đọc truyện đêm khuya lại rất… tâm trạng.
Không biết có ai còn nhớ vào khoảng những năm 1980, lâu lâu có một đoàn chiếu bóng về chiếu phim phục vụ bà con trong khu tập thể. Nghe tin, buổi tối sau khi ăn cơm xong, khoảng 7h, mọi người rủ nhau đi thành đoàn, người cầm ghế, người mang quạt giấy ra tập trung tại bãi đất trống phía trước cổng trường cấp 1-2 Trung Tự xem phim.
Mọi người ngồi bệt dưới đất, trên dép hoặc trên ghế xem rất trật tự. Một số đứa trẻ cỡ tuổi mình khi đó lại trèo lên bờ tường trường Trung Tự để xem cho dễ vì chỗ ấy vừa cao hơn lại vừa gần màn hình hơn, cho dù không cẩn thận sẽ rách mông vì mấy cái mảnh chai cắm trên đó.
Có lẽ những bộ phim ấn tượng nhất với mình hồi đó là phim về 3 chàng ngự lâm pháo thủ, mụ phù thủy với cái cán chổi, Alibaba và 40 tên cướp. Thường phim chiếu được một nửa thì các chú chiếu phim sẽ cho nghỉ giải lao tầm 15 phút để cho máy nguội. Khung cảnh khi đó thật yên bình đúng kiểu trời thì trong, trăng thì thanh, còn gió thì rất là mát; không có tiếng xe chạy, cũng chẳng có tiếng nói chuyện điện thoại, chỉ có tiếng diễn viên trong phim và tiếng rè rè của máy chiếu.
Cuối năm 1976, cụ ông nhà mình sau chuyến đi vào Sài Gòn thăm họ hàng có mang về một chiếc tivi 12 inch đen trắng hiệu Sharp. Kể từ đó, hầu như các buổi tối cuối tuần, phòng khách nhà mình luôn đông hàng xóm đến xem phim truyền hình, cả người lớn lẫn trẻ con. Mình thích nhất là những lúc được thể hiện vai trò chủ nhà, được quyền cấp phép cho hay không cho vào xem đối với mấy đứa nhỏ tuổi hơn. Không biết có phải do tivi xịn hay do mắt của mình tốt mà ngồi xem cách khoảng 5m vẫn thấy rõ dù màn hình có 12 inch.
Rồi có giai đoạn nghe nói khu chuyên gia có đài phát sóng truyền hình Liên Xô, thế là mình tìm mọi cách bắt sóng. Do không có anten ngoài trời nên anten râu của tivi hầu như không bắt được. Thế là với chút kiến thức phổ thông về vật lý mới học trên trường, mình treo lên cái anten bộ phin pha cà phê bằng nhôm, cùng giấy bạc lấy từ vỏ bao thuốc lá. Kết quả hết sức khả quan, lâu lâu cũng nghe được tiếng vang vọng thì thầm và hình bóng mờ mờ ảo ảo của ai đó trên màn hình.
Mặc dù phải vừa xem lại vừa đoán, nhưng cũng rất phấn khích khi lần đầu tiên tivi nhà mình bắt được đài “Tây”. Sau đó một thời gian, có ông bạn tầng trên có ba đi công tác Liên Xô nên mang về một chiếc tivi màu cũng cỡ khoảng 12 inch. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời mình được biết thế nào là tivi màu dù hình ảnh lúc rõ lúc mờ và thấy màu nền là chủ yếu.
Xếp hàng mua lương thực và nhu yếu phẩm
Thời kỳ đó, việc xếp hàng không phải là vấn đề lớn mà mọi người phải quan tâm. Một trong những lý do có thể là do số lượng người mua và sản phẩm để bán không có nhiều. Gọi là đi xếp hàng mua gạo, rau, thịt, bánh mì, dầu hỏa… cũng không hoàn toàn chính xác vì lương thực và nhu yếu phẩm đa phần được nhà nước phân phối theo tem phiếu và người dân chỉ đơn giản là đi xếp để nhận hàng mà thôi.
Hồi đó căn hộ dưới đất góc nhà B4 được trưng dụng làm nơi phát bánh mì. Tầm gần trưa là có xe chở bánh đến, đậu ở ngoài đường trước cửa nhà B6. Từ đây, bánh mì được bốc xuống một “xe thùng” và đẩy đến nhà B4. Ở đây đã có một hàng dài người mà trong đó có không ít những đứa trẻ thay mặt bố mẹ đứng xếp hàng chờ nhận bánh.
Nếu như mình nhớ không lầm thì mỗi lần như vậy được nhận khoảng 5 cái bánh. Có hôm may mắn thì nhận được bánh còn nóng hổi như mới ra lò, còn ngược lại, cũng có hôm bánh nguội ngắt. Trung bình cứ 5 cái thì ít nhất có một cái vừa cháy lại vừa đen. Không những thế, những cái bánh mì cũng rắn rỏi như những người thợ làm ra nó đến nỗi đôi lúc mấy đứa trẻ còn sử dụng như một vũ khí để đánh nhau trong lúc mang bánh về nhà.
Thời kỳ đó, chỉ khi nào bị ốm mới có được cơ hội uống sữa ông Thọ thôi chứ lấy đâu ra sữa cô gái Hà Lan mà chấm với mút với bánh mì. Cứ bánh mì chấm với đường kính màu vàng khè ăn buổi sáng, cuối cùng, mình lớn được đến ngày hôm nay. Lâu lâu cũng có đôi lần bị ốm thật, thế là cụ ông mỗi sáng cho 2.000 đồng, ra ngay nhà ăn Kim Liên mua phở. Ăn khoảng 3 bát, hết ốm liền.
Cùng với nhà ăn Kim Liên, sau này có xây thêm cửa hàng lương thực Kim Liên - nơi chuyên “bán” gạo và thịt cá theo tem phiếu cho cả người dân khu tập thể Kim Liên lẫn khu tập thể Trung Tự. Có vài lần mình lĩnh nhiệm vụ xếp hàng mua gạo ở đó.
Nói đến thành ngữ “buồn như mất sổ gạo” thời bao cấp đó, lại nhớ đến chuyện có cậu bạn thân ở B1, thằng em đi xếp hàng mua gạo và làm mất sổ, về nhà mếu máo kể lại cho thằng anh. Thế là 2 anh em cùng ôm nhau khóc. Thời đó làm gì có chuyện xin cấp lại bản sao của sổ gạo. Những đứa trẻ nào hay phải thay bố mẹ đi xếp hàng (vì ban ngày bố mẹ phải đi làm) thì sẽ chạm mặt nhau hầu như thường xuyên tại các nơi đó.
Tương tự như vậy là chuyện xếp hàng mua dầu hỏa ở gần chợ Kim Liên, bên dưới cửa hàng mậu dịch. Hành trang mang theo là một cái can nhựa khoảng 5 hay 10 lít. Chưa kể đôi khi có người nhờ vả còn cầm theo cả một viên gạch để thay mặt thân chủ xếp trong hàng.
Nếu nói là xếp hàng mua bán thì chính xác có 2 nơi mình đã từng có “giao dịch”. Một là căn phòng đầu tiên tầng 1 đầu hồi nhà C1 có thời gian được trưng dụng làm nơi bán rau củ quả. Cứ buổi chiều đến, xe rau sẽ về, mọi người có thể chọn lựa rau và trả tiền trực tiếp. Thời nào cũng vậy, có quen biết vẫn hơn. Lúc ấy gia đình có chị người quen bán hàng ở đó, thế là lần nào muốn mua được rau ngon, chỉ cần nói trước cho chị một hôm là hôm sau chị ấy sẽ để dành riêng cho mình đến lấy, khỏi cần xếp hàng.
Rồi chuyện xếp hàng mua báo cũng ở phía bên hông nhà ăn Kim Liên. Lâu lâu mình cũng được cụ ông sai đi mua báo. Báo hồi đó chủ yếu là báo Nhân Dân. Hình như hồi đó 500 đồng một tờ báo. Sáng sớm tầm 7h đã có một hàng dài các cụ ông đứng xếp hàng ở trước ô bán báo nằm bên hông tòa nhà nhà ăn. Được cái ở đây không có vụ xếp gạch vì thường báo về đến rất đúng giờ và cũng thường được bán hết rất nhanh. Cũng may là mình chỉ bị sai đi mua báo vào mùa hè thôi chứ rơi vào mùa đông thì có mà "lên đường" sớm.
Chuyện điện, chuyện nước
A …a a a…! Khỏi cần phải hét lên và tận mắt nhìn cũng đủ hiểu là có điện rồi. Cả khu tập thể bừng sáng nhưng không đến nỗi ồn ào náo nhiệt như ở trên phố. Một tuần dễ điện bị mất đến 3-4 hôm. Riết rồi cũng quen dần với cuộc sống ngày có ngày không, quen dần với ánh sáng của bóng đèn dầu khi học bài.
Hồi đó cụ ông sắm được 2 cái đèn dầu to khủng khiếp. Mỗi lần thắp là sáng cả phòng khách, đứng ngoài đường còn nhìn thấy được. Tuy vậy, nó cũng đốt khá nhiều dầu hỏa và khói bốc lên đen cực kỳ. Vào mùa đông, ngồi học bài bên cái đèn dầu đó rất đã vì được sưởi ấm thêm từ cái nóng từ nó. Trái lại vào mùa hè, chả khác gì hành xác khi học bài. Không thể quên được hình ảnh bố với ngọn đèn dầu ngồi vá xe cho khách, nhất là vào những đêm gió mùa đông bắc. Rồi hình ảnh thầy Dậu, cô Hương một tay cầm phấn, một tay cầm đèn dầu, rọi theo từng dòng chữ trên bảng trong lớp học thêm Văn, Toán vào buổi tối.
Mùa hè nóng nực, sau khi tự học bài xong, mấy đứa gần nhà hay hẹn gặp nhau hoặc ngồi tám chuyện đâu đó hoặc đi loanh quanh trong khu. Có những đêm trời oi bức, cả đám cởi trần đi lang thang sang tận khu Kim Liên đến tận khuya mới về nhà. Gặp chỗ vòi nước công cộng nào vắng mà có nước là nhảy vào, mở vòi, té nước lên người cho mát.
Trời mùa hè nóng bức nên hầu như trên tay lúc nào cũng phải có hoặc quạt nan, hoặc quạt giấy, kể cả khi đi học. Có những đêm hè, đã nóng bức thì chớ lại còn không có điện, hầu như cả đêm trằn trọc không thể ngủ được vì nóng.
Mất điện cũng là lúc đám trẻ hay nghĩ ra nhiều trò tinh quái, như đi “sờ ve” chẳng hạn. Thời đó, cây to cổ thụ dọc hai bên các con đường trong khu Kim Liên và cả trong trường cấp 1-2 Kim Liên còn nhiều lắm. Thế nên các cặp đôi hay thường chọn những gốc cây để đứng tâm sự. Ở đâu có xe đạp dựng là biết ngay ở đó có người.
Trời thì tối đen như mực, cộng thêm mất điện toàn khu, đấy là những lúc mấy thằng rủ nhau đi “sờ ve”. Không có đèn pin, cũng chẳng có đèn đường, cứ thế vừa đi quanh gốc cây, bàn tay vừa mò mẫm dọc thân cây từ trên xuống gốc. May thì đụng nhẹ thì bắt được ngay con ve, còn không thì gạt phải con ve xuống dưới đất, và thế là lại phải tiếp tục mò mẫm mặt đất dưới gốc cây. Mà chả hiểu sao mấy thằng cứ nhè chỗ gốc cây nào có xe đạp dựng là đến kiếm ve ở chỗ đó.
Có một dạo, hết giờ tan tầm, về đến nhà là ngay lập tức mọi người gồng gánh xô, thùng từ tầng trên xuống tầng 1, hoặc xếp hàng đợi lấy nước ở vòi nước công cộng, hoặc xin nước ở nhà tầng 1. Không cần biết ông là ai, không cần biết anh làm ở đâu, Vụ trưởng, vụ phó hay chánh văn phòng, giám đốc nhà máy đều phải đi gánh nước hết.
Những nhà ở tầng 1 thường xây hẳn bể nước to để tích trữ nước. Từ đây, tình làng nghĩa xóm được gắn kết thêm thông qua tình yêu với nước. Sau khi xuất hiện máy bơm Liên Xô, dần dần một số hộ có điều kiện dòng dây từ tầng cao xuống thùng nước của mình đặt chỗ vòi nước ngay chân cầu thang. Từ đây, khu tập thể thêm một âm thanh mới lạ nữa: tiếng máy bơm nước rì rì... từ 4 rưỡi, 5 giờ chiều cho đến xẩm tối.
Đi qua những năm tháng, mỗi người đều mang theo mình vô vàn ký ức. Ký ức đó có thể là tình yêu quê hương cháy bỏng, một mảng mơ hồ, mộng mị của tình yêu đôi lứa, hoặc khoảng lặng nhớ về một người, một thời gian khó... Tất cả ký ức vui buồn ấy sẽ sống lại qua tuyến bài Hồi ức thế hệ 5X - 8X. VietNamNet mời độc giả thế hệ từ 5X đến 8X gửi chia sẻ về ký ức của mình đến email: bandoisong@vietnamnet.vn. Những bài có nội dung hấp dẫn, cảm động sẽ được đăng tải trên VietNamNet. Trân trọng cảm ơn! |
Độc giả Nguyễn Quang Vinh